1 PHẦN I.
PHẦN CHUẨN BỊ
1.1 Tóm tắt vụ án
Ngày 01/10/2012, ông Trịnh Văn Dũng ký kết hợp đồng không xác định thời hạn với công ty TNHH ELECTRIC VIETNAM với chức danh sale manager (quản lý bán hàng). Đây là hợp đồng kế thừa các hợp đồng lao động ký ngày 01/01/2011 với Công ty TNHH AREVA T&D Việt Nam và trước đó là hợp đồng lao động ký ngày 03/7/2009 với Văn phòng đại diện AREVA T& PTE LTD tại Hà Nội. Việc kế thừa này được công ty TNHH ELECTRIC VIETNAM thừa nhận trong hợp đồng.

Ngày 29/6/2013, anh Dũng nhận được thư điện tử do bà Nguyễn Thị Bích Nga (phụ trách nhân sự) của công ty gửi đến yêu cầu anh Dũng thỏa thuận chấm dứt hợp đồng với công ty vì lý do: Không đạt được yêu cầu đưa ra từ phía người quản lý theo bản đánh giá và xác định mục tiêu cho năm 2013 (được lập trong tháng 6/2013).

Anh Dũng không chấp nhận yêu cầu và lý do đưa ra vì theo anh Dũng, chỉ tiêu doanh thu công việc cả năm 2013 ông phải hoàn thành là 1.000.000USD, nhưng đến tháng 6/2013, ông đã hoàn thành được 600.000USD. Hơn nữa, công ty cũng thừa nhận lĩnh vực anh Dũng phụ trách đang có những khó khăn khách quan từ thị trường.

Do đó, ngày 10/01/2014, anh Dũng gửi đơn khởi kiện ra TAND quận Đ, Hà Nội. Qua quá trình hòa giải, đối chất giữa các bên do Tòa án tiến hành, anh Dũng yêu cầu công ty TNHH ELECTRIC VIETNAM phải bồi thường các khoản tiền theo quy định của pháp luật về lao động với tổng số tiền là 588.122.750đ cộng các khoản quy định về bảo hiểm trong trường hợp nhận anh Dũng trở lại làm việc. Trường hợp không nhận anh Dũng trở lại làm việc, công ty ELECTRIC VIETNAM phải bồi thường số tiền là 869.996.525đ. (các khoản bồi thường đều có bản chi tiết nộp tòa án).

1.2 Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

Kính thưa HĐXX, vị đại diện VKS và vị luật sư đồng nghiệp,
Tôi là luật sư Nguyễn Văn A, thuộc VPLS Nguyễn A, đoàn luật sư TP. Hà Nội, là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Trịnh Văn Dũng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngày hôm nay.

Tôi xin trình bày yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

Thứ nhất, nguyên đơn và bị đơn đã thỏa thuận thống nhất ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn đúng theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/6/2013, bị đơn gửi thư điện tử yêu cầu nguyên đơn chấm dứt hợp đồng lao động với lý do nguyên đơn không đạt được yêu cầu đưa ra từ phía người quản lý theo bảng đánh giá và xác định mục tiêu cho năm 2013. Tuy nhiên bảng đánh gia này lại được lập trong tháng 6/2013. Việc lấy bảng đánh giá của tháng 6 làm căn cứ đánh giá cho cả năm là vô lý. Hơn nữa, chỉ tiêu doanh thu cả năm mà nguyên đơn phảo hoàn thành là 1.000.000USD, nhưng đến tháng 6/2013 nguyên đơn đã hoàn thành 600.000USD trong tình hình phía bị đơn thừa nhận lĩnh vực nguyên đơn phụ trách đang gặp nhiều khó khăn khách quan.

Vì vậy, yêu cầu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của bị đơn là không có căn cứ. Đề nghị HĐXX tuyên bố hủy bỏ quyết định này.

Thứ hai, trong thời gian phải nghỉ việc do tranh chấp hợp đồng lao động này, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường các khoản chi phí như sau:

* Trường hợp Công ty nhận anh Dũng trở lại làm việc 
- Lương và phụ cấp trong những ngày anh Dũng không được làm việc từ ngày 01/10/2013 đến ngày 01/7/2014 là 9 tháng là: 9th x 35.351.050đ/th = 318.159.450đ; 
- Bồi thường 02 tháng lương + phụ cấp là: 02th x 35.351.050đ/th = 70.702.100đồng; 
- Thanh toán tiền lương tháng thứ 13 là: 34.246.300đ x l,5th = 51.369.450đ; 
- Phép không sử dụng trong 2014 là: 7 ngày x 34.246.300đ/22 ngày =10.896.550đ; 
- Thanh toán tiền thâm niên công tác theo quy định của Công ty tương đương 04 tháng: 4th x 34.246.300đ = 136.985.200đ; 
Tổng cộng: 588.112.750đ
Ngoài ra, yêu cầu Công ty nộp các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật trong thời gian anh Dũng không được làm việc từ ngày 01/10/2013 đến khi xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
* Nếu Công ty không đồng ý nhận anh Dũng trở lại làm việc, công ty phải bồi thường cụ thể:
...
Liên hệ Facebook