TTO - Chánh án TAND tối cao đã công bố 6 án lệ được Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thông qua, các tòa án trên toàn quốc có trách nhiệm nghiên cứu, áp dụng trong xét xử kể từ ngày 1-6.
TTO giới thiệu nội dung chính của 6 án lệ đầu tiên:
Án lệ số 01/2016/AL
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày
16-4-2014 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Giết người” đối
với bị cáo Đồng Xuân Phương (sinh năm 1975, TP. Hải Phòng).
Khái quát nội dung:
Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của
người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà
không có ý định tước đoạt tính mạng của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu
gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công
vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người); người
thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc
nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người
chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với
tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.
Án lệ số 02/2016/AL
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày
08-7-2010 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp đòi
lại tài sản” tại tỉnh Sóc Trăng giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảnh
với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám.
Khái quát nội dung:
Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì
Tòa án phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng
giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ;
Trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì
cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và người đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có
công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với
tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu.
Án lệ số 03/2016/AL
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày
3-5-2013 của Toà dân sự TAND tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội giữa
nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với bị đơn là anh Phạm Gia Nam.
Khái quát nội dung:
Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ
chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi
ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác
trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử
dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai
đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ
chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.
Án lệ số 04/2016/AL
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày
3-3-2010 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” tại TP Hà Nội giữa nguyên đơn là
bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến với bị đơn là ông Lê Văn Ngự.
Khái quát nội dung:
Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người
đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn
lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển
nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp
đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển
nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người
không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải
xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất.
Án lệ số 05/2016/AL
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày
9-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp di
sản thừa kế” tại TP.HCM giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà
Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải, chị Nguyễn Thị Thuý
Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào.
Khái quát nội dung:
Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được
hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý,
tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng
đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc
xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa
kế;
Nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem
xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di
sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Án lệ số 06/2016/AL
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 100/2013/GĐT-DS ngày
12-8-2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa
kế” tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng với bị đơn là bà Vũ
Thị Tiến (tức Hiền), bà Vũ Thị Hậu.
Khái quát nội dung:
Trong vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước
ngoài, nếu Tòa án đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo
đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của
những người đó thì tòa án vẫn giải quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác
định được di sản thừa kế, diện hàng thừa kế và người để lại di sản thừa
kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa kế cho nguyên đơn
theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của những người vắng
mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người sống trong
nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt.
TÂM LỤA
0 Comments