Khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.”
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, xác định: “Tòa án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm”. Quy định về nhiệm vụ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao, tại Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014
ghi rõ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có
tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công
bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử;”
1.Án lệ là gì?
Án lệ (tiếng Pháp-Jurisprudence) được hiểu là: Đường lối giải thích
và áp dụng luật pháp của các tòa án về một điểm pháp lý, đường lối này
đã được coi như một tiền lệ, khiến các thẩm phán sau đó có thể noi theo
trong các trường hợp tương tự. Nói nôm na, xử theo án lệ là việc tòa cấp
dưới vận dụng các phán quyết có từ trước của tòa cấp trên để đưa ra một
phán quyết mới tương tự trong một vụ việc tương tự.
Theo quan điểm của các nhà luật học theo hệ luật Anh -Mỹ (Anglo –
Sacxon), thì án lệ được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa hẹp, án lệ bao
gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tuyên bố bởi Tòa án và có giá
trị như nguồn luật, đưa ra những nguyên tắc, nền tảng áp dụng cho các vụ
việc xảy ra tương tự sau này, hay là cách thức sử dụng các nguyên tắc
có sẵn như là những căn cứ áp dụng để quyết định các vụ việc xảy ra
trong tương lai. Còn theo nghĩa rộng, án lệ là nguyên tắc bắt buộc đòi
hỏi Thẩm phán trong hệ thống các cơ quan Toà án khi xét xử một vụ việc
cụ thể cần phải căn cứ ngay vào các bản án, các vụ việc trước đó, đặc
biệt là các phán quyết của các Tòa cấp cao (Hight Court), Tòa phúc thẩm
(Court of Appeal) và Tòa án tối cao (Supreme Court) hay là những nguyên
tắc không theo luật định được đưa ra từ các quyết định tư pháp, hay là
hệ thống những nguyên tắc bất thành văn đã được công nhận và hình thành
thông qua các quyết định của Tòa án.
Với những nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (hệ thống pháp
luật Dân sự - Civil Law), tiêu biểu một số nước như Pháp, Đức, Ý, Nhật
Bản,… Án lệ được xem như một cách giải thích pháp luật. Những bản án này
không được xem là luật, không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng tòa cấp
dưới phải tham khảo, nếu không nguy cơ bị tòa cấp trên sửa án rất cao.
Cơ sở hình thành án lệ chính là những khiếm khuyết của hệ thống pháp
luật. Khi có những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật, tòa án sẽ viện
dẫn những căn cứ pháp luật được coi là hợp lý để đưa ra một phán quyết
có tính đột phá và bản án này sẽ được tòa án tối cao công bố là án lệ để
áp dụng chung cho các trường hợp tương tự do khiếm khuyết quy phạm hoặc
chưa có dẫn chiếu quy phạm rõ ràng. Ở nước ngoài, khái niệm án lệ (Case
Law) còn được gọi là tiền lệ pháp (Precedent) là một trong những nguồn
luật chính thức và quan trọng trong hệ thống pháp luật của quốc gia và
được áp dụng rộng rãi. Theo đó, những bản án, quyết định giải quyết vụ
việc trong các tập san án lệ trở thành khuôn mẫu, trở thành cơ sở để tòa
đưa ra phán quyết trong những vụ việc có tình tiết, vấn đề tương tự sau
đó. Tiền lệ pháp ở nước ngoài còn là quá trình làm luật của tòa trong
việc công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới khi xét xử.
Với cách tiếp cận ở góc độ rộng nhất, có thể thấy thuật ngữ án lệ hàm
chứa những nội dung cơ bản của thuật ngữ tiền lệ pháp và giữa chúng tuy
có sự khác nhau về mặt thuật ngữ nhưng lại cùng chỉ về một khái niệm.
Về bản chất, án lệ cũng chính là tiền lệ pháp, do cả hai đều xuất phát
từ Tòa án và hình thành từ quá trình xét xử. Mặt khác, tiền lệ pháp là
thuật ngữ dùng để chỉ về một hình thức pháp luật, còn án lệ dùng để chỉ
về nguồn của pháp luật, mà nguồn của pháp luật cũng chính là hình thức
pháp luật. Nói một cách khác, tiền lệ pháp là một hình thức pháp luật
hay quá trình làm luật của tòa án, còn án lệ là những bản án, quyết định
mà Toà án làm căn cứ để áp dụng sau này cho những vụ việc có tình tiết
tương tự. Dù đây thật sự không phải là hai từ đồng nghĩa, nhưng thông
thường, người ta gọi các bản án sau có giá trị áp dụng tương tự và được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chọn lọc công bố và cho xuất bản phục vụ
cho công tác nghiên cứu khoa học và tham khảo gọi là những án lệ.
Tuy nhiên quan điểm khác cho rằng, tiền lệ pháp và án lệ là hai khái
niệm độc lập với nhau. Tiền lệ pháp được hiểu là việc làm luật của Tòa
án trong việc công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong quá trình
xét xử dựa trên cơ sở những vụ việc đã được quyết định trước đây cho
những trường hợp và vấn đề tương tự. Còn án lệ (Case Law) là tập hợp các
vụ việc đã được xét xử của cơ quan tư pháp trong quá trình xét xử, hay
chỉ đơn thuần là các phán quyết của Tòa án (bản án), được dùng làm cơ sở
cho việc giải quyết các vụ việc tương tự trong tương lai.
Nói một cách khác, tiền lệ pháp là một hình thức pháp luật hay quá
trình làm luật của Tòa án; Án lệ là những bản án, quyết định mà toà án
làm căn cứ để áp dụng cho những vụ việc có tình tiết tương tự sau này.
Đây không phải là hai từ đồng nghĩa và dẫn chiếu đến nhau. Trong lĩnh
vực tư pháp quốc tế, án lệ còn được hiểu theo nghĩa là tiền lệ án hay
thực tiễn Tòa án. Mà theo đó, là các bản án hoặc quyết định của Tòa án
mà trong đó thể hiện các quan điểm của Thẩm phán đối với các vấn đề pháp
lý mang tính chất quyết định trong việc giải quyết các vụ việc nhất
định và trong tương lai mang ý nghĩa giải quyết đối với các quan hệ
tương ứng.[1]
Cũng cần phân biệt với khái niệm về án mẫu. Án mẫu là những bản án
được xây dựng trên những cơ sở pháp luật hết sức chặt chẽ mà trong những
tình huống như vậy, khó có thể đưa ra phán quyết khác được. Do đó, khi
có những tình huống tương tự bắt buộc tòa án phải đưa ra các phán quyết
tương tự như án mẫu. Một điểm cần lưu ý là, khi bản án được coi là án
mẫu thì Toà án tối cao sẽ chuyển tải đến các Toà án cấp dưới để làm
nguồn tham khảo và các Toà án cấp dưới coi đó là những “khuôn mẫu” để
xét xử những vụ án tương tự.
Điểm giống nhau giữa án lệ và án mẫu là trong các điều kiện tương tự
thì tòa án đều phải ra những phán quyết chung được coi là chuẩn mực và
các phán quyết đó được thừa nhận như những giá trị bắt buộc chung. Tác
giả cho rằng, đây là điều đã gây ra khá nhiều nhầm lẫn giữa án lệ và án
mẫu nếu như không cẩn thận khi nghiên cứu. Bởi trong khi án lệ được phát
triển từ các bản án, quyết định của Tòa án trước khi có các văn bản quy
phạm pháp luật và vẫn còn được áp dụng bởi các Tòa án khi đã có văn bản
quy phạm pháp luật, thì ngược lại không giống như án lệ, có thể nói
môi trường áp dụng của án mẫu trong các quan hệ pháp luật dường như
không có những hạn chế trong các ngành luật vì việc áp dụng án mẫu
thường không đi trái các nguyên tắc pháp lý thông thường. Như đã trình
bày ở trên, việc ra đời của án mẫu xuất phát từ những cơ sở pháp luật
hết sức chặt chẽ mà trong những tình huống tương tự khó có thể đưa ra
phán quyết khác được.
Chẳng hạn, khoản 1 Điều 278 BLHS quy định tội
“Tham ô tài sản”, mà theo đó, mức thấp nhất và mức cao nhất của loại
hình phạt tù của cấu thành cơ bản từ 02 năm đến 07 năm, khoảng cách giữa
giới hạn trên và giới hạn dưới khá rộng. Để tránh tình trạng tuy có
cùng dấu hiệu pháp lý, cùng những tình tiết giống nhau (không có tình
tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân
thân người phạm tội tốt;…) nhưng có Hội đồng xét xử tuyên bị cáo này với
mức án mức thấp nhất của khung; có Hội đồng xét xử tuyến mức hình phạt
tù 03 năm và cho hưởng án treo; có trường hợp phạt 04 năm tù hoặc 05 năm
tù;… hoàn toàn thiếu lẽ công bằng mà pháp luật đã giành cho họ. Điều
này thực tế gây nhiều tranh cãi trong hoạt động xét xử, thì những bản án
mẫu sẽ được Tòa án cấp có thẩm quyền chọn lọc giới thiệu để Tòa án cấp
dưới, nhất là những Thẩm phán tham khảo cho các trường hợp tương tự nhằm
đưa ra phương án xử lý thích hợp nhất.
Theo quan điểm của người viết, trong điều kiện hệ thống pháp luật của
Nhà nước ta chưa được hoàn thiện và luôn có sự thay đổi cho phù hợp với
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Hơn nữa,
thực tiễn rất đa dạng và phong phú nên việc chọn lọc, ban hành bản án
mẫu nhằm bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật nội dung
trong hệ thống Tòa án nước ta khi xét xử là điều thật sự rất khó khăn.
Và cũng chính từ lý do đó, thuật ngữ được dùng trong Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2010; tại Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 là
án lệ mà không dùng cụm từ án mẫu.
2. Án lệ ở các nước trên thế giới
Ở nhiều nước trên thế giới, việc công bố bản án được thực hiện thường
xuyên, liên tục, rộng rãi bằng nhiều phương tiện thông tin đại chúng,
kể cả trên hệ thông Internet. Đối với các nước theo hệ thống luật chung
Anh-Mỹ (Common Law), những bản án mẫu được tuyển chọn, đăng tải trong
các báo cáo tổng hợp án lệ (Law Report) và trở thành án lệ (Case Law) là
nguồn của pháp luật. Riêng ở Mỹ, khi xét xử các hành vi vi phạm pháp
luật và các tranh chấp nảy sinh, các tòa án cần phải diễn giải luật bằng
các bản án trước đó của Tòa án cùng cấp hoặc Tòa án cấp cao hơn. Đây
được gọi là nguyên tắc theo quyết định trước hay đơn giản gọi là án lệ,
tiền lệ pháp. Nếu phải đối mặt với các án lệ bất lợi, bị đơn sẽ tìm cách
phân biệt sự khác nhau giữa vụ việc của mình với những vụ việc trước
đó. Sau đó Tòa án cấp cao hơn sẽ tìm cách giải quyết mâu thuẫn này để bổ
sung cho án lệ ngày một hoàn chỉnh hơn. Ở Pháp, trong trường hợp nếu
pháp luật quy định không rõ ràng, không đầy đủ, thẩm phán vẫn phải tuyên
án nếu không muốn bị kiện vì hành vi phủ nhận công lý. Do vậy, chỉ có
cách ổn thỏa nhất, Thẩm phán sẽ dựa vào án lệ đã được thừa nhận để đưa
ra phán quyết. Mặt khác, ở Cộng hòa Liên bang Đức, phương pháp xây dựng
án lệ đã tạo điều kiện cho Tòa án nước này thể hiện vai trò sáng tạo,
nhất là khi giải thích luật, Tòa án được căn cứ vào câu chữ, ngữ cảnh và
mục đích của qui phạm, kể cả căn cứ vào quá trình soạn thảo qui phạm
đó. Đặc biệt, Tòa án còn có quyền lựa chọn cách giải thích phù hợp nhất
với hiến pháp, án lệ được hình thành từ việc giải thích một qui phạm
pháp luật cũng có giá trị, hiệu lực gần như chính qui phạm pháp luật. Rõ
ràng án lệ có giá trị không những về thực tiễn, mà còn có giá trị không
thua gì một qui phạm pháp luật.
Ở Tây Ban Nha, chịu ảnh hưởng của luật
La Mã, vẫn coi án lệ như một nguồn luật, có giá trị bổ sung trật tự pháp
lý thông qua luận thuyết được Tòa án tối cao áp dụng trong quá trình
giải thích và áp dụng luật, tập quán, kể cả các nguyên tắc chung của
luật pháp. Ở Anh Quốc, vai trò sáng tạo của án lệ rất quan trọng, được
thể hiện theo quy tắc của tiền lệ pháp đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ
XIX được hiểu như một qui tắc đã được lập ra trong một phán quyết ban
hành trước đó chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các thẩm phán khi xét xử
các vụ kiện tương tự. Việc xây dựng án lệ theo quan điểm xét xử của các
tòa án có thẩm quyền xem xét bản án của tòa án cấp dưới đã góp phần bổ
sung tốt sự thiếu sót của các qui định luật pháp trong thực tiễn, nên
việc vận dụng án lệ kể cả tục lệ pháp được thực hiện khá phổ biến. Chính
vì vậy, mà các nhà nghiên cứu cho rằng hệ thống luật pháp ở Anh là theo
luật mềm, không cứng nhắc dựa vào các văn bản pháp luật do Quốc hội
(Nghị viện) ban hành, mà có sự vận dụng linh hoạt đúng luật vừa phù hợp
với thực tiễn, bằng cả nguồn tập quán, tục lệ phù hợp lẽ phải và công
bằng xã hội.[2]
Thông thường, người ta gọi các bản án có giá trị áp dụng tương tự sau
này và được lưu trong các tập san do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công bố là những án lệ. Ví dụ: Án lệ có tên là: Moorgate Mercantili v
Twitchings [1976].1.QB, 225, CA. Bản án này được đưa ra bởi Tòa Phúc
thẩm (Court of Apeal) sau khi xem xét bản án bị kháng cáo được tuyên từ
Tòa Nữ hoàng (tòa cấp dưới). Đây là một vụ kiện giữa Moorgate Mercantili
kiện Twitchings về việc ông ta đã gây thiệt hại cho mình do Twitchings
đã có những hành vi làm cho ông tin tưởng. Vụ án này đã được phúc thẩm
phán Lord Dening đưa ra những phán quyết, trong đó có giải thích chế
định “Estoppel” (Ngăn không cho phủ nhận) như sau: Khi một người đã thể
hiện bằng lời nói, lời hứa, và các hành vi cụ thể của mình làm cho người
khác tin và thiết lập giao dịch với mình, thì anh ta không được quyền
thoái thác các nghĩa vụ phát sinh từ lời hứa và các hành vi cụ thể của
mình. Bản án đã trở thành án lệ. Nếu sau đó, có một vụ kiện tương tự mà
một bên ra lời giao kết với bên khác nhưng không thực hiện lời giao kết
của mình làm bên kia thiệt hại thì có thể bị kiện và bị xử thua, vì căn
cứ vào án lệ này.
Hiện nay, hầu hết các nước có nền luật pháp tiên tiến, đều có sự vận
dụng án lệ trong xét xử ở hệ thống Tòa án, xuất phát từ yêu cầu thực
tiễn xét xử, với nguyên tắc Tòa án không được quyền từ chối thụ lý bất
cứ yêu cầu khởi kiện nào của công dân và đồng thời cũng có nguyên nhân
sâu xa từ sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới của các nước, do
vậy, hai hệ thống luật pháp Anglo Saxon và Continental, kể cả hệ thống
pháp luật của những nước xã hội chủ nghĩa.
3.Án lệ ở Việt Nam
Ở Việt Nam dưới chế độ Sài Gòn trước năm 1975, tiền lệ pháp cũng
được coi là một nguồn trong lĩnh vực dân sự, Bộ Tư pháp đã xuất bản án
lệ theo định kỳ ba tháng. Ấn phẩm đăng tải những trích dẫn về quan điểm
hay định hướng xét xử trong các bản án của Tối cao pháp viện, Tòa hành
chính, Tòa thượng thẩm... Những bản án này là một trong những căn cứ
pháp lý để xét xử cho các tranh chấp tương tự về sau. Hệ thống luật pháp
của chế độ Sài Gòn trước đây vốn chịu ảnh hưởng của luật pháp châu Âu,
nhất là luật pháp của Pháp, đặc biệt là pháp luật dân sự, nên cũng rất
quan tâm việc xây dựng án lệ. Bộ Dân luật do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
ban hành theo Sắc luật số 028 TT/SLU ngày 20/12/1972, đã có qui định
liên quan đến yêu cầu áp dụng án lệ trong xét xử, cụ thể, tại Thiên mở
đầu, Điều 8 có ghi: “Thẩm phán nào không chịu xét xử vì lẽ luật không
định hay luật tối nghĩa, thiếu sót, sẽ có thể bị truy tố về tội bất
khẳng thụ lý”; Điều 9 quy định: “Gặp trường hợp không có điều luật nào
có thể dẫn dụng, thẩm phán sẽ quyết định theo tục lệ; nếu không có tục
lệ, sẽ theo công bằng và lẽ phải mà xét xử và phải chú trọng đến ý định
của các đương sự”. Theo các chuyên gia nghiên cứu, pháp luật của chế độ
cũ trước đây, sở dĩ có được án lệ là nhờ ở Tòa Thượng thẩm (Cour
d’appel) và Tòa Phá án (Cour de cassation) là những cơ quan kiểm soát
lại các bản án của các Tòa án cấp dưới, qua đó Tòa Phá án bảo đảm một sự
thống nhất trong việc giải thích và áp dụng pháp luật và lâu dần hệ
thống các Tòa án sẽ hướng theo các án lệ mà Tòa Phá án đưa ra.
Trong giai đoạn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, để thống
nhất việc xử phạt một số loại tội phạm, ngày 19/01/1955 Thủ tướng Chính
phủ ban hành Thông tư số 442/TTg về việc trừng trị một số tội phạm, mà
theo đó, Thông tư nêu rõ: “…Kinh nghiệm xét xử về một số loại phạm pháp
đã được trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa
phương. Đường lối xét xử do đó không được thống nhất, rõ ràng và có nơi
không được đúng. Cần phải thống nhất những án lệ ấy trong quy định chung
sau đây để hướng dẫn các tòa án trừng trị một số tội phạm thông thường
Tuy nhiên án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa phương. Đường lối xét
xử do đó không được thống nhất, rõ ràng và có nơi không được đúng. Cần
phải thống nhất những án lệ ấy trong quy định chung sau đây để hướng dẫn
các Toà án trừng trị một số tội phạm thông thường.
1. Trộm cắp: phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
- Cướp đường hay trộm có tổ chức, có bạo lực có dùng vũ khí để doạ nạt thì phạt tù từ 3 đến 10 năm.
- Cướp của mà có giết người có thể phạt đến tử hình.
2. Lừa gạt, bội tín : phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
3. Đánh bị thương : phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
- Đánh bị thương có tổ chức hoặc gây thành cố tật hay chết người có thể phạt đến 20 năm.
- Cố ý giết người : phạt tù từ 5 đến 20 năm : nếu có trường hợp giảm
nhẹ thì có thể hạ xuống đến 1 năm ; giết có dự mưu có thể phạt đến tử
hình.”
4. Không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà gây tai nạn làm
người khác bị thương sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm, nếu gây tai nạn
làm chết người có thể bị phạt tù đến 10 năm.
Ngoài ra đối với những tội tương tự với những tội ở trên đây, các Toà án có thể phạt theo như những tội ở trên.
Trong khi xét xử, các Toà án cần phải thận trọng, không được máy móc
và cũng không nên quá linh động để làm sai lạc tinh thần chính sách
trừng trị của Chính phủ, mà phải tuỳ nơi tuỳ lúc có chủ trương trừng
phạt cho đúng trong phạm vi đã quy định trên đây”. Tuy nhiên về sau, án
lệ lại không được chính thức thừa nhận và áp dụng.
Đề án “Phát triển triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao” (ban hành
theo Quyết định 74/QĐ-TANDTC ngày 31/10/2012), mục tiêu phát triển án lệ
của TAND Tối cao nhằm nâng cao chất lượng bản án, quyết định của ngành
Tòa án nói chung, đặc biệt là Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm
phán TAND Tối cao và các Tòa chuyên trách TAND Tối cao, góp phần đảm
bảo việc áp dụng pháp luật đúng, thống nhất, từ đó đảm bảo sự bình đẳng
của mọi tổ chức và công dân trước pháp luật. Đề án cũng xác định quan
điểm chỉ đạo, để hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng
kết kinh nghiệm xét xử. Nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trong công
tác xét xử tại phiên tòa cũng như tăng cường việc bồi dưỡng, đào tạo các
chức danh tư pháp, bảo đảm các yêu cầu của cải cách tư pháp và đề ra
một số giải pháp phát triển án lệ của TAND Tối cao, như kiến nghị xây
dựng các văn bản qui phạm pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc phát triển
án lệ, thiệt lập án lệ của TAND Tối cao, cải tiến cách viết và thông
qua các bản án, quyết định của tòa án, đặc biệt là Quyết định Giám đốc
thẩm của TAND Tối cao, tăng cường việc sử dụng án lệ trong thực tiễn xét
xử, thành lập bộ phận chuyên trách để tuyển tập án lệ. Không ai phủ
nhận được vai trò của án lệ trong thực tiễn xét xử vì thực tiễn cho thấy
không hệ thống pháp luật nào có thể bao trùm hết mọi tình huống xã
hội, nên dùng án lệ bổ sung cho quy định pháp luật là cần thiết.Tuy
nhiên, các chuyên gia pháp lý đều cho rằng, để án lệ có “chỗ đứng” trong
văn hóa pháp lý Việt Nam, ngoài việc thống nhất mô hình phát triển án
lệ để phát huy những yếu tố tích cực của nó trong thực tiễn xét xử ở
Việt Nam, thì cũng cần định hướng về đào tạo nghề luật sư và đổi mới tư
duy pháp lý về án lệ cho thẩm phán, luật gia.[3]
Tuy nhiên, cũng có quan điểm không đồng tình với việc công nhận, áp
dụng án lệ ở Việt Nam. Vì: Hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng
sửa đổi, bổ sung các quy định nên trong từng giai đoạn cụ thể thì chính
sách pháp luật sẽ không còn giống nhau. Án lệ chính là pháp luật, nhưng
để vận dụng phán quyết của bản án đó áp dụng cho vụ án sau, trong khi
quy định của pháp luật luôn thay đổi. Mặt khác, với một nước theo hệ
thống luật thành văn như nước ta thì Hiến pháp là đạo luật gốc, có giá
trị pháp lý cao nhất. Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;…” do
vậy, không thể làm gì khác hơn.
Về góc độ khoa học pháp lý, luật của chúng ta quy định ở dạng khung
nên việc xét xử ở mỗi nơi, mỗi Tòa khác nhau là chuyện bình thường, vấn
đề là không oan, sai người không có tội; bảo đảm lẽ công bằng cho đương
sự là tốt.
Người viết cho rằng, tập hợp các bản án giám đốc thẩm chuẩn thành án
lệ để khắc phục những kẽ hở mà luật thành văn chưa quy định là thật sự
cần thiết không chỉ là đòi hỏi khách quan đối với hệ thống Tòa án nước
ta, mà còn cả với hệ thống Tòa án các nước. Trước hết, với những tranh
chấp cụ thể mà pháp luật quy định chưa rõ hoặc chưa có, Thẩm phán nên
vận dụng các quy định khác của pháp luật để giải quyết. Sau đó, nếu phán
quyết không bị xem lại thì lấy nó minh họa cho các vụ tranh chấp tương
tự. Phán quyết này có thể xem là án lệ và cơ quan chức năng cần tập hợp,
phát hành rộng rãi cho mọi người tham khảo. Điều này có lợi là pháp
luật được áp dụng thống nhất, đồng thời giúp người tiến hành tố tụng và
đương sự có thể dự đoán được kết quả tranh chấp. Hướng giải quyết từ
những án lệ này dần dần sẽ được nâng lên thành các quy định thành văn. Ở
một khía cạnh khác, thực tế luôn phát sinh nhiều vướng mắc mà pháp luật
không dự liệu trước. Nếu Thẩm phán chờ có quy định mới thì sẽ ảnh hưởng
đến quyền khởi kiện của người dân. Trong những trường hợp như thế, nếu
áp dụng án lệ sẽ khắc phục được nhược điểm này. Tất nhiên, nước ta là
nước có đa dân tộc cùng sinh sống hòa thuận trên mọi vùng, miền của Tổ
quốc, mỗi dân tộc có nền văn hóa lâu đời với phong tục, tập quán đặc
thù. Ở hoàn cảnh mới, xã hội dân sự phát triển mạnh mẽ, đất nước lại
đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ , nên phải chấp nhận nhiều tập
quán thương mại quốc tế... Trong khi đó, pháp luật ban hành ngày càng
thiếu và nhiều lỗ hổng không đồng bộ và cũng không thể tăng tốc độ hoạt
động lập pháp hơn nữa của Quốc hội. Vì vậy chúng ta cần công nhận, dựa
vào các luật tục này bổ sung cho pháp luật thì mới có thể quản lý xã hội
hiệu quả hơn.
Vấn đề được nhiều người quan tâm là những bản án nào sẽ trở thành án
lệ để các tòa, các thẩm phán tham khảo. Như Đề án phát triển án lệ của
TANDTC có đề cập, mà theo đó, quan điểm được thể hiện trong các quyết
định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao là án lệ và Tòa
án cấp dưới cần đưa ra các xét xử không mâu thuẫn với các án lệ này. Ở
nước ta, thẩm quyền giải thích luật là của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
nhưng trên thực tế, khi gặp những trường hợp mà luật quy định chưa rõ
hoặc chưa điều chỉnh, rất ít khi cơ quan này ra văn bản giải thích.
Trong khi đó, thẩm phán là người trực tiếp áp dụng pháp luật giải quyết
các tranh chấp nảy sinh, nên việc coi quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC giải thích pháp luật bằng bản án là phù hợp nhất.
Từ những bản án giải thích luật này, nhà làm luật sẽ nâng lên thành các
quy phạm pháp luật để chấm dứt tình trạng xét xử mà không viện dẫn cơ sở
pháp lý nào trong bản án.
Mặt khác, thông qua thực tiễn hoạt động xét xử của hệ thống tòa án,
TANDTC giải đáp những vướng mắc của các Tòa án cấp dưới về đường lối xét
xử tội phạm cụ thể hoặc việc vận dụng qui phạm pháp luật,… để các Tòa
án cấp dưới nghiên cứu rút kinh nghiệm trong xét xử, có thể coi như là
án lệ, dù đó chưa phải là một quy định bắt buộc, nhưng có tính định
hướng để các Tòa án cấp dưới vận dụng thống nhất trong việc xét xử các
vụ án tương tự. Tuy chỉ là tài liệu lưu hành nội bộ, như trong phần “Lời
nói đầu” của quyển Giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế,
lao động, hành chính và tố tụng của TANDTC xuất bản năm 1999, có viết:
“…Nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ pháp luật và nghiên cứu, Tòa án nhân
dân tối cao biên tập lại các vấn đề đã được giải đáp tại các công văn
thành cuốn …”.
Mặt khác, hàng năm TANDTC đều tổ chức tổng kết rút kinh
nghiệm thực tiễn, hướng dẫn công tác xét xử, từ văn bản tổng kết hướng
dẫn nghiệp vụ xét xử TANDTC kịp thời tháo gỡ các vướng mắc trong công
tác chuyên môn của Tòa án cấp dưới. Văn bản này có thể là nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC,… Bên cạnh đó, TANDTC đã xúc tiến việc chọn
lọc xuất bản dưới dạng “Sách chuyên khảo”; “Tạp chí TANDTC” nhiều và rất
nhiều quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC trong nhiều lĩnh vực,
gồm: Hình sự, Dân sự, Thương mại,…phục vụ cho xét xử, nghiên cứu khoa
học và cho đông đảo người dân biết, vận dụng hay tham khảo. Như vậy, rõ
ràng các văn bản chứa đựng nội dung có tính hướng dẫn công tác xét xử
này chính là một dạng án lệ mà các Tòa án địa phương luôn vận dụng trong
công tác nghiệp vụ của mình.
Tóm lại: Việc áp dụng án lệ ngoài ý nghĩa giải quyết một vụ án cụ thể
còn thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau này, do đó,
sẽ tạo bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau, giúp tiên
lượng được kết quả của các vụ tranh chấp, tiết kiệm công sức của các
Thẩm phán, Người tham gia tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng, tạo ra sự
công bằng trong xã hội. Án lệ là khuôn thước mẫu mực để các thẩm phán
tuân theo vì được đúc kết, chọn lọc kỹ và mang tính chuyên nghiệp. Khi
ấy thẩm phán chỉ cần đối chiếu để đưa ra phán quyết, tránh chuyện mỗi
người nhìn nhận, đánh giá vấn đề một kiểu. Từ đó tránh được chuyện dư
luận xã hội cho rằng việc xét xử của tòa án là không bình đẳng. Đồng
thời, áp dụng án lệ còn giúp các đơn vị khi đàm phán, soạn thảo và ký
kết hợp đồng giao dịch dân sự, thương mại biết phòng tránh rủi ro...
Th.S Lê Văn Sua
Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
[1] Các hệ thống Pháp luật cơ bản trên thế giới (của tác giả Michel
Fromont, Giáo sư đại học Panthéon Sorbon – Paris I). Dịch giả: Trương
Quang Dũng, hiệu đính: Nguyễn Văn Bình; NXB Tư pháp; HN; 2006
[2] https://vi.wikipedia.org/wiki/An_le
[3] http://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=5413
0 Comments