(Chinhphu.vn) - Ngày 5/10/2015,
Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,
New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tuyên bố kết thúc
đàm phán. Cổng TTĐT Chính phủ xin giới thiệu với bạn đọc tóm tắt về Hiệp
định lịch sử này.
Có 5 đặc điểm chính làm TPP trở thành
một hiệp định mang tính bước ngoặt của thế kỷ 21, tạo ra một tiêu chuẩn
mới cho thương mại toàn cầu trong khi vẫn đề cập tới các vấn đề mang
tính thế hệ mới. Các đặc điểm đó bao gồm:
Tiếp cận thị trường một cách toàn diện.
Hiệp định TPP cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế về căn bản
đối với tất cả thương mại hàng hóa và dịch vụ và điều chỉnh toàn bộ các
lĩnh vực về thương mại trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu
tư nhằm tạo ra các cơ hội và lợi ích mới cho doanh nghiệp, người lao
động và người tiêu dùng của các nước thành viên.
Tiếp cận mang tính khu vực trong việc đưa ra các cam kết. Hiệp
định TPP tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung
ứng, cũng như thương mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ
trợ thực hiện mục tiêu về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các
nỗ lực bảo tồn và tạo thuận lợi cho việc hội nhập qua biên giới cũng như
mở cửa thị trường trong nước.
Giải quyết các thách thức mới đối với thương mại. Hiệp
định TPP thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh thông qua
việc giải quyết các vấn đề mới, trong đó bao gồm việc phát triển nền
kinh tế số và vai trò ngày càng tăng của các doanh nghiệp Nhà nước trong
nền kinh tế toàn cầu.
Bao hàm toàn bộ các yếu tố liên quan đến thương mại. Hiệp
định TPP bao gồm các yếu tố mới được đưa ra để bảo đảm rằng các nền
kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô
đều có thể hưởng lợi từ thương mại. Hiệp định bao gồm các cam kết nhằm
giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp định, tận dụng được
những cơ hội mà Hiệp định mang lại và nêu lên những thách thức đáng chú ý
tới chính phủ các nước thành viên. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết
cụ thể về phát triển và nâng cao năng lực thương mại để đảm bảo rằng
tất cả các bên đều có thể đáp ứng được những cam kết trong Hiệp định và
tận dụng được đầy đủ những lợi ích của Hiệp định.
Nền tảng cho hội nhập khu vực.
Hiệp định TPP được ra đời để tạo ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế
khu vực và được xây dựng để bao hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu
vực châu Á-Thái Bình Dương.
PHẠM VI
Hiệp định TPP gồm có 30 chương điều
chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan tới thương mại, bắt đầu từ
thương mại hàng hóa và tiếp tục với hải quan và thuận lợi hóa thương
mại; vệ sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối với thương
mại; quy định về phòng vệ thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại điện
tử; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường; các chương về “các vấn đề
xuyên suốt” nhằm bảo đảm Hiệp định TPP đạt được tiềm năng của mình về
phát triển, tính cạnh tranh và tính bao hàm; giải quyết tranh chấp;
ngoại lệ và các điều khoản về thể chế.
Như đã đề cập ở phía trên, bên cạnh việc
nâng cấp cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã được điều
chỉnh bởi các hiệp định thương mại tự do trước đó (FTAs), Hiệp định TPP
còn đưa vào những vấn đề thương mại mới và đang nổi lên cũng như những
vấn đề xuyên suốt. Những vấn đề này bao gồm những nội dung liên quan đến
Internet và nền kinh tế số, sự tham gia ngày càng tăng của các doanh
nghiệp Nhà nước vào thương mại và đầu tư quốc tế, khả năng của các doanh
nghiệp nhỏ trong việc tận dụng các hiệp định thương mại và những nội
dung khác.
Hiệp định TPP tập hợp một nhóm các nước
khác nhau – khác nhau về địa lý, ngôn ngữ và lịch sử, quy mô và mức độ
phát triển. Tất cả các nước TPP đều nhận thức rằng tính đa dạng về phát
triển là một tài sản độc đáo nhưng cũng yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ, xây
dựng năng lực cho các nước TPP có trình độ phát triển thấp hơn, và
trong một số trường hợp, giai đoạn chuyển đổi và cơ chế đặc biệt cho
phép một số thành viên TPP một khoảng thời gian bổ sung cần thiết để
nâng cao năng lực thực thi các nghĩa vụ mới.
TẠO RA CÁC QUY TẮC THƯƠNG MẠI KHU VỰC
Dưới đây là bản tóm tắt 30 chương của
Hiệp định TPP. Các lộ trình cam kết và phụ lục được quy định kèm theo
các chương này liên quan tới thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, mua
sắm chính phủ và nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh. Ngoài ra,
chương về Doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các ngoại trừ của từng nước được
quy định trong phụ lục kèm theo chương.
1.Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung
Nhiều thành viên TPP đang có các hiệp
định với nhau. Chương về Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung giải
thích rõ mối quan hệ giữa TPP với các hiệp định thương mại quốc tế đang
có giữa các bên, trong đó có Hiệp định WTO, các hiệp định song phương
và khu vực. Chương này cũng đưa ra các định nghĩa cho các thuật ngữ được
sử dụng trong nhiều hơn một chương của Hiệp định.
2. Thương mại hàng hóa
Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ
hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa
công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan cũng như các chính sách
mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa nông nghiệp. Việc tiếp cận mang
tính ưu đãi thông qua Hiệp định TPP sẽ làm gia tăng thương mại giữa các
nước TPP với thị trường gồm 800 triệu dân và sẽ hỗ trợ cho việc làm chất
lượng cao tại tất cả 12 nước thành viên. Việc xóa bỏ phần lớn thuế quan
đối với hàng công nghiệp sẽ được thực hiện ngay lập tức mặc dù thuế
quan đối với một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các
bên thống nhất. Việc cắt giảm thuế cụ thể do các bên thống nhất được quy
định tại lộ trình cam kết bao gồm tất cả hàng hóa và được đính kèm theo
lời văn của Hiệp định. Các bên tham gia TPP sẽ công bố các lộ trình này
và những thông tin khác liên quan tới thương mại hàng hóa để bảo đảm
rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các doanh nghiệp lớn có thể
tận dụng được Hiệp định TPP. Các bên cũng nhất trí không sử dụng các yêu
cầu về thực hiện như là điều kiện để một số nước áp đặt cho các doanh
nghiệp để được hưởng các lợi ích về thuế quan. Ngoài ra, các bên nhất
trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu và các loại thuế
không phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng tân trang - việc này
được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận để chuyển thành
các sản phẩm mới. Nếu các Bên TPP duy trì yêu cầu cấp phép nhập khẩu
hoặc xuất khẩu thì phải thông báo cho các bên kia về những quy trình
không nhằm mục đích làm chậm sự lưu thông thương mại.
Đối với hàng nông nghiệp, các bên sẽ xóa
bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách mang tính hạn chế khác để
gia tăng thương mại hàng nông nghiệp trong khu vực, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao an ninh lương thực và hỗ trợ việc làm cho người nông
dân và chủ trại nuôi gia súc của các nước TPP. Bên cạnh việc xóa bỏ hoặc
cắt giảm thuế quan, các bên TPP nhất trí thúc đẩy cải cách về mặt chính
sách, bao gồm cả việc thông qua xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp,
hợp tác trong WTO để xây dựng các quy định về tín dụng xuất khẩu và giới
hạn khoảng thời gian cho phép áp dụng các hạn chế đối với xuất khẩu
lương thực nhằm bảo đảm hơn nữa an ninh lương thực trong khu vực. Các
bên tham gia TPP nhất trí nâng cao tính minh bạch hóa liên quan đến việc
vận hành doanh nghiệp thương mại nhà nước xuất khẩu và đưa ra các quy
định hạn chế việc cấp vốn ưu đãi từ Chính phủ hoặc các chính sách khác
gây bóp méo thương mại nông sản, cũng như yêu cầu về minh bạch hóa và
phối hợp trong các hoạt động cụ thể liên quan đến công nghệ sinh học
nông nghiệp và nông nghiệp hữu cơ.
3. Dệt may
Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ
thuế quan đối với hàng dệt may – ngành công nghiệp đóng vai trò quan
trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường của các nước TPP.
Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế quan đối với
một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các bên
thống nhất. Chương Dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu
cầu việc sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP - điều này sẽ thúc đẩy việc
thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư khu vực trong lĩnh vực này,
cùngvới cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho phép việc sử dụng một số loại
sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực. Ngoài ra, Chương này
còn bao gồm các cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn chặn
việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ chế tự vệ đặc biệt đối
với dệt may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ bị thiệt
hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước trong trường hợp có
sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.
4. Quy tắc xuất xứ
Để gỡ rối tình trạng “bát mỳ ống” của
quy tắc xuất xứ gây trở ngại cho doanh nghiệp trong việc tận dụng các
FTA trước đó trong khu vực, thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực và bảo đảm
rằng các nước TPP sẽ là những người hưởng lợi chính của Hiệp định hơn là
các nước không phải là thành viên, 12 nước thành viên TPP đã thống nhất
về một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có
xuất xứ” và do vậy được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Quy tắc xuất
xứ cụ thể theo mặt hàng được quy định kèm theo lời văn của Hiệp định.
Hiệp định TPP quy định về “cộng gộp” để các nguyên liệu đầu vào từ một
bên TPP được đối xử như những nguyên liệu từ một bên khác nếu được sử
dụng để sản xuất ra một sản phẩm tại bất kỳ một bên TPP. Các bên tham
gia TPP cũng đưa ra các quy tắc để bảo đảm rằng doanh nghiệp có thể hoạt
động một cách dễ dàng xuyên khu vực TPP thông qua việc thiết lập một hệ
thống chung trên toàn TPP về chứng minh và kiểm tra xuất xứ của hàng
hóa TPP. Các nhà nhập khẩu sẽ có thể yêu cầu được hưởng ưu đãi về xuất
xứ với điều kiện họ có các chứng từ chứng minh. Ngoài ra, Chương này
cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền công cụ cần thiết để xác minh các
yêu cầu về hưởng ưu đãi một cách có hiệu quả.
5. Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại
Bên cạnh các nỗ lực trong khuôn khổ WTO
về thuận lợi hóa thương mại, các bên TPP đã nhất trí về các quy tắc nhằm
thúc đẩy việc tạo thuận lợi cho thương mại, nâng cao tính minh bạch hóa
trong các thủ tục hải quan và bảo đảm tính chính trực trong việc quản
lý hải quan. Những quy tắc này sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp TPP bao gồm cả
doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích các quy trình vận hành thủ tục
hải quan nhanh chóng và thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực. Các bên TPP đã
nhất trí minh bạch hóa các quy tắc, trong đó có việc công bố các luật và
quy định về hải quan cũng như quy định về giải phóng hàng hóa không
chậm chễ và ký quỹ hoặc thanh toán bắt buộc trong trường hợp hải quan
chưa đưa ra quyết định về số thuế hoặc phí phải trả. Các nước TPP nhất
trí áp dụng những quy định thông báo trước về xác định trị giá hải quan
và các vấn đề khác nhằm giúp cho doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp
lớn và nhỏ, kinh doanh với khả năng có thể dự báo trước được tình hình.
Các nước cũng nhất trí về các quy định liên quan tới xử phạt hải quan để
bảo đảm các hình thức xử phạt này được thực hiện một cách công bằng và
minh bạch. Bên cạnh đó, vì tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đối các
lĩnh vực kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước
TPP đã nhất trí về các quy định hải quan đối với chuyển phát nhanh. Để
hỗ trợ việc chống buôn lậu và trốn thuế, các nước TPP nhất trí cung cấp
thông tin khi được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực thi luật
hải quan.
6. Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật
Liên quan đến việc cải tiến các quy định
về SPS, các nước TPP đã chia sẻ mối quan tâm trong việc bảo đảm các quy
định dựa trên căn cứ khoa học mang tính minh bạch, không phân biệt đối
xử, và tái khẳng định quyền của các nước trong việc bảo đảm an ninh
lương thực và bảo vệ sức khỏe vật nuôi và cây trồng tại nước mình. Hiệp
định TPP dựa trên các quy định của Hiệp định SPS của WTO về xác định và
quản lý rủi ro theo một cách không hạn chế thương mại hơn mức cần thiết.
Các nước TPP nhất trí cho phép công chúng được đóng góp ý kiến vào các
dự thảo quy định SPS trong quá trình đưa ra quyết định và ban hành chính
sách cũng như để bảo đảm rằng doanh nghiệp hiểu rõ các quy định mà họ
sẽ phải tuân thủ. Các nước nhất trí rằng việc kiểm tra hàng hóa đáp ứng
các quy định SPS được dựa trên các rủi ro tiềm tàng trên thực tế có gắn
với việc nhập khẩu và thông báo cho nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong
vòng bảy ngày nếu hàng hóa bị cấm nhập khẩu vì lý do liên quan đến SPS.
Các bên cũng nhất trí rằng các biện pháp khẩn cấp cần thiết để bảo vệ
sức khỏe con người, động thực vật có thể được thực hiện với điều kiện
bên thực hiện biện pháp đó phải thông báo cho tất cả các bên về sự cần
thiết mang tính khoa học của biện pháp được áp dụng. Ngoài ra, các bên
cam kết cải thiện việc trao đổi thông tin liên quan tới các yêu cầu về
tương đương và khu vực hóa, cũng như đẩy mạnh việc kiểm tra trên toàn hệ
thống để đánh giá tính đầy đủ trong việc kiểm soát về mặt quy định đối
với an toàn thực phẩm của các bên TPP. Trong nỗ lực giải quyết nhanh các
vấn đề SPS phát sinh giữa các bên, các bên đã nhất trí thiết lập một cơ
chế tham vấn giữa các chính phủ.
7. Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
Các thành viên TPP đã nhất trí về các
nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử khi xây dựng các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, trong khi
vẫn bảo lưu quyền của các thành viên TPP trong quản lý vì các lợi ích
công cộng. Các thành viên TPP đồng ý hợp tác để đảm bảo rằng các quy
định và tiêu chuẩn kỹ thuật không tạo ra rào cản không cần thiết đối với
thương mại. Để cắt giảm chi phí cho các doanh nghiệp TPP, đặc biệt là
các doanh nghiệp nhỏ, các thành viên TPP nhất trí các quy định giúp xóa
bỏ các quy trình kiểm tra và chứng nhận trùng lắp đối với các sản phẩm,
thiết lập quy trình dễ dàng hơn giúp các công ty tiếp cận thị trường các
nước TPP. Trong Hiệp định TPP, các thành viên phải cho phép công chúng
góp ý đối với dự thảo các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự
phù hợp trong quá trình xây dựng chính sách và để đảm bảo rằng các
thương nhân hiểu rõ các quy định mà họ cần phải thực hiện. Các thành
viên cũng sẽ đảm bảo một khoảng thời gian hợp lý giữa thời điểm công bố
các quy định kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp và thời điểm có hiệu lực để
các doanh nghiệp có đủ thời gian đáp ứng các yêu cầu mới. Ngoài ra,
Hiệp định TPP bao gồm các phụ lục liên quan tới các quy định về các lĩnh
vực cụ thể nhằm thúc đẩy các cách tiếp cận chung về chính sách trong
khu vực TPP. Các lĩnh vực này bao gồm mỹ phẩm, thiết bị y tế, dược
phẩm, các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông, rượu và đồ uống
có cồn, thực phẩm và các chất gây nghiện và các sản phẩm nông nghiệp hữu
cơ.
8. Phòng vệ thương mại
Chương Phòng vệ thương mại thúc đẩy minh
bạch hóa và quy trình thủ tục trong các vụ kiện phòng vệ thương mại
thông qua việc công nhận các thực tiễn tốt nhất nhưng không ảnh hưởng
đến các quyền và nghĩa vụ của các thành viên TPP trong WTO. Chương này
đưa ra một cơ chế tự vệ tạm thời, cho phép một thành viên thực hiện một
biện pháp tự vệ tạm thời trong một khoảng thời gian cụ thể nếu việc nhập
khẩu tăng đột biến do kết quả của việc cắt giảm thuế được thực hiện
theo Hiệp định TPP đủ để gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản
xuất trong nước. Các biện pháp này có thể được duy trì lên tới 2 năm,
với việc gia hạn 1 năm, nhưng phải được tự do hóa dần dần nếu các biện
pháp này đã kéo dài hơn 1 năm. Các thành viên áp dụng các biện pháp tự
vệ sẽ phải thực hiện các yêu cầu thông báo và tham vấn. Chương này cũng
đưa ra các quy định yêu cầu một thành viên TPP đang áp dụng biện pháp tự
vệ tạm thời cung cấp khoản bồi thường được các bên thống nhất. Đồng
thời, các thành viên không được cùng lúc áp dụng nhiều hơn một biện pháp
tự vệ được cho phép trong TPP đối với một sản phẩm.
9. Đầu tư
Khi xây dựng các quy định về đầu tư, các
thành viên TPP đã đưa ra các nguyên tắc yêu cầu các chính sách và bảo
hộ đầu tư công bằng và không phân biệt đối xử nhằm bảo đảm nguyên tắc cơ
bản của luật pháp, trong khi vẫn bảo đảm khả năng của Chính phủ các
thành viên để đạt được các mục tiêu chính sách công hợp pháp. TPP quy
định sự bảo hộ đầu tư cơ bản như trong các hiệp định thương mại khác,
bao gồm: đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; “tiêu chuẩn đối xử tối
thiểu” đối với đầu tư trên cơ sở tập quán luật thương mại quốc tế;
nghiêm cấm việc trưng thu không vì mục đích công cộng, không theo quy
trình thủ tục và không có bồi thường; tự do chuyển tiền liên quan đến
đầu tư với các ngoại lệ trong Hiệp định TPP nhằm đảm bảo cho các Chính
phủ giữ quyền linh hoạt quản lý các dòng vốn không ổn định, bao gồm
thông qua biện pháp tự vệ tạm thời không phân biệt đối xử (chẳng hạn như
kiểm soát vốn) nhằm hạn chế việc chuyển tiền liên quan đến đầu tư trong
trường hợp khủng hoảng hoặc có nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán,
và các cuộc khủng hoảng kinh tế khác hoặc để đảm bảo sự toàn vẹn và ổn
định của hệ thống tài chính; nghiêm cấm “các yêu cầu thực hiện” chẳng
hạn như yêu cầu về hàm lượng nội địa hoặc tỷ lệ nội địa hóa công nghệ;
và tự do bổ nhiệm các vị trí quản lý cấp cao mà không quan tâm đến quốc
tịch.
Các thành viên chấp nhận các nghĩa vụ
dựa trên cơ sở “một danh mục chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là
mở hoàn tòan đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi các thành viên
đưa ra một ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích) trong một
trong hai Phụ lục cụ thể của quốc gia đó đính kèm Hiệp định TPP: (1) các
biện pháp hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa
ra các biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự
do hóa nào trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo
đó một quốc gia duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ
trong tương lai. Chương này cũng đưa ra trọng tài quốc tế trung lập và
minh bạch đối với các tranh chấp về đầu tư, với cơ chế tự vệ mạnh mẽ
nhằm ngăn chặn các khiếu nại lạm dụng và không đáng kể và đảm bảo quyền
của các Chính phủ quản lý lợi ích công cộng, bao gồm bảo vệ sức khỏe, an
toàn và môi trường. Cơ chế tự vệ theo quy trình bao gồm: quy trình
trọng tài minh bạch, đệ trình của các bên quan tâm, đệ trình của bên thứ
ba; việc rà soát được tiến hành đối với các khiếu nại không đáng kể và
quyết định về phí luật sư; rà soát tạm thời và cơ chế quyết định; diễn
giải chung mang tính ràng buộc của các bên TPP; các hạn chế thời gian
thực hiện khiếu nại; và các quy định nhằm ngăn chặn bên nguyên đơn theo
đuổi một khiếu nại theo các quy trình song song.
10. Thương mại dịch vụ qua biên giới
Trên cơ sở tầm quan trọng ngày càng tăng
của thương mại dịch vụ đối với các thành viên TPP, 12 quốc gia chia sẻ
sự quan tâm về tự do hóa thương mại trong lĩnh vực này. TPP bao gồm các
nghĩa vụ cốt lõi trong WTO và các hiệp định thương mại khác: đối xử quốc
gia; đối xử tối huệ quốc; mở cửa thị trường yêu cầu không thành viên
TPP nào có thể áp dụng các hạn chế định lượng đối với việc cung cấp dịch
vụ (chẳng hạn như một hạn chế về số lượng các nhà cung cấp hoặc số
lượng các dịch vụ) hoặc yêu cầu thành lập một loại thực thể pháp lý hoặc
liên doanh cụ thể; và hiện diện địa phương, nghĩa là không một nước nào
có thể yêu cầu một nhà cung cấp dịch vụ từ một quốc gia khác thiết lập
một văn phòng hoặc liên kết hoặc cư trú trong lãnh thổ của mình để được
cung cấp dịch vụ. Các thành viên TPP chấp nhận các nghĩa vụ dựa trên cơ
sở “một danh mục chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là mở hoàn tòan
đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi các thành viên đưa ra một
ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích) trong một trong hai Phụ
lục cụ thể của quốc gia đó đính kèm Hiệp định TPP: (1) các biện pháp
hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra các biện
pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa nào
trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc
gia duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai.
Các thành viên TPP cũng đồng ý quản lý
các biện pháp áp dụng chung theo cơ chế hợp lý, khách quan và công bằng;
và chấp nhận các yêu cầu về minh bạch hóa trong xây dựng các quy định
mới về dịch vụ. Các lợi ích của chương này có thể bị từ chối đối với
“các doanh nghiệp bên ngoài TPP” và một nhà cung cấp dịch vụ được sở hữu
bởi các bên không phải là thành viên TPP và một thành viên TPP nghiêm
cấm các giao dịch cụ thể với bên đó. Các thành viên TPP đồng ý cho phép
tự do chuyển tiền liên quan tới cung cấp dịch vụ qua biên giới với các
ngoại lệ của Hiệp định TPP nhằm đảm bảo cho các Chính phủ giữ quyền linh
hoạt quản lý các dòng vốn không ổn định, bao gồm thông qua biện pháp tự
vệ tạm thời không phân biệt đối xử (chẳng hạn như kiểm soát vốn) nhằm
hạn chế việc chuyển tiền cung cấp dịch vụ qua biên giới trong hoàn cảnh
khủng hoảng hoặc có nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán, và các cuộc
khủng hoảng kinh tế khác hoặc để đảm bảo sự toàn vẹn và ổn định của hệ
thống tài chính. Thêm vào đó, Chương này bao gồm phụ lục dịch vụ chuyên
môn nhằm khuyến khích hoạt động hợp tác về công nhận việc cấp giấy phép
hoặc các vấn đề chính sách khác và phụ lục về dịch vụ chuyển phát nhanh.
11. Dịch vụ tài chính
Chương Dịch vụ tài chính của TPP cung
cấp các cơ hội mở cửa thị trường đầu tư và qua biên giới quan trọng,
trong khi đảm bảo rằng các thành viên TPP duy trì quyền quản lý đầy đủ
đối với các tổ chức và thị trường tài chính, thực hiện các biện pháp
khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng. Chương này bao gồm các nghĩa vụ
cốt lõi tìm thấy trong các hiệp định thương mại khác, bao gồm: Đối xử
quốc gia, đối xử tối huệ quốc, các quy định cụ thể của Chương Đầu tư,
bao gồm Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu (chẳng hạn như cho phép các khiếu
nại bị từ chối tại tòa hoặc không được cung cấp bảo vệ an ninh) tuân
theo các tập quán luật thương mại quốc tế (ví dụ như các khiếu nại về
một số hành động của chính phủ không nằm trong nghĩa vụ pháp lý chung),
cũng như các khiếu nại vì các thiệt hại do nội chiến (ví dụ như thua lỗ
gây ra do xung đột vũ trang hoặc nội chiến); và mở cửa thị trường. Điều
này cho phép việc bán dịch vụ tài chính cụ thể qua biên giới sang một
thành viên TPP từ một nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên TPP khác
mà không yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải thành lập cơ sở hoạt động tại
một nước khác để bán các dịch vụ của mình – nhưng cho phép một thành
viên TPP yêu cầu đăng ký hoặc được ủy quyền của nhà cung cấp dịch vụ tài
chính qua biên giới ở nước TPP khác nhằm giúp đảm bảo việc quản lý và
giám sát thích hợp. Một nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên TPP có
thể cung cấp một dịch vụ tài chính mới tại thị trường của nước TPP khác
nếu các công ty trong nước tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ
đó. Các thành viên TPP có các ngoại lệ cụ thể của mình đối với một số
các quy định trong hai phụ lục đính kèm Hiệp định TPP: (1) các biện pháp
hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra các
biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa
nào trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một
quốc gia duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương
lai.
Các thành viên TPP cũng đưa ra các
nguyên tắc công nhận chính thức tầm quan trọng của quy trình hoạch định
chính sách để giải quyết việc đưa ra các dịch vụ bảo hiểm của các nhà
cung cấp được cấp phép và các quy trình để đạt được mục tiêu này. Thêm
vào đó, Hiệp định TPP bao gồm các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu
tư, dịch vụ thanh toán thẻ điện tử và chuyển thông tin để xử lý dữ
liệu. Hiệp định cũng bao gồm các quy định cụ thể về tranh chấp đầu tư
liên quan tới tiêu chuẩn đối xử tối thiểu trên cơ sở tập quán luật
thương mại quốc tế, cũng như các quy định liên quan tới các chuyên gia
dịch vụ tài chính trong ban trọng tài và cơ chế trình tự đặc biệt nhằm
tạo điều kiện cho việc áp dụng ngoại lệ thận trọng và các ngoại lệ khác
của Chương. Cuối cùng, Hiệp định bao gồm các ngoại lệ duy trì quyền linh
hoạt lớn cho các nhà quản lý tài chính của TPP thực hiện các biện pháp
thúc đẩy sự ổn định tài chính và sự toàn vẹn của hệ thống tài chính bao
gồm các ngoại lệ thận trọng và ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt
đối xử nhằm theo đuổi các chính sách tiền tệ hoặc chính sách cụ thể
khác.
12. Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh
Chương Nhập cảnh tạm thời của khách kinh
doanh khuyến khích các cơ quan có thẩm quyền của các thành viên TPP
cung cấp thông tin về việc nộp đơn xin nhập cảnh, để đảm bảo rằng phí
nộp đơn là hợp lý, đưa ra quyết định đối với đơn xin nhập cảnh và thông
tin cho các ứng viên nộp đơn về quyết định là sớm nhất có thể. Các thành
viên TPP đồng ý đảm bảo rằng các yêu cầu về nhập cảnh tạm thời là sẵn
sàng công khai cho công chúng, bao gồm công bố thông tin kịp thời và
trực tuyến nếu có thể và cung cấp tài liệu giải thích; và các bên đồng ý
tiếp tục hợp tác về các vấn đề nhập cảnh tạm thời chẳng hạn như xử lý
thị thực. Đa số các thành viên TPP cũng đã cam kết về mở cửa thị trường
khách kinh doanh cho nhau, theo như Phụ lục cụ thể của từng nước đính
kèm Hiệp định TPP.
13. Viễn thông
Các thành viên TPP chia sẻ sự quan tâm
trong việc đảm bảo mạng lưới viễn thông hiệu quả và đáng tin cậy tại mỗi
quốc gia. Các mạng lưới này là cần thiết đối với các công ty lớn và nhỏ
như là một cổng ra vào đối với các dịch vụ internet cũng như các sản
phẩm như điện thoại di động thông minh và các thiết bị máy tính bảng và
các ứng dụng và nội dung tích hợp của các thiết bị này. Lần đầu tiên
trong một hiệp định thương mại khu vực, các quy định tiếp cận mạng lưới
hỗ trợ cạnh tranh được mở rộng đối với các nhà cung cấp điện thoại. Các
thành viên TPP cam kết đảm bảo rằng các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông
trong lãnh thổ của mình cung cấp sự kết nối nội địa, các dịch vụ cho
thuê thiết bị, địa điểm dùng chung, và tiếp cận các cổng hoặc thiết bị
khác theo các điều khoản và điều kiện hợp lý và theo một thời gian kịp
thời. Các thành viên cũng cam kết, nếu có yêu cầu cấp giấy phép, đảm bảo
minh bạch hóa về bất kỳ quy định nào trong lĩnh vực này và quy định đó
không giới hạn các công nghệ cụ thể như cách thức nhằm tạo điều kiện cho
công nghệ trong nước. Nhằm tránh các thất bại thị trường hoặc các hành
vi độc quyền, các thành viên TPP đồng ý dựa trên áp lực thị trường và
các đàm phán thương mại trong lĩnh vực viễn thông. Các thành viên cũng
đồng ý thúc đẩy cạnh tranh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng
các phương tiện khác nhau trong chuyển vùng di động. Các thành viên TPP
đồng ý rằng nếu một thành viên lựa chọn quản lý mức phí dịch vụ chuyển
vùng di động quốc tế bán buôn thì thành viên đó phải cho phép các nhà
hoạt động từ các thành viên TPP không quản lý các dịch vụ điện thoại
được hưởng lợi ích với mức phí thấp hơn.
14. Thương mại điện tử
Trong Chương Thương mại điện tử, các
thành viên TPP cam kết đảm bảo rằng các công ty và người tiêu dùng có
thể tiếp cận và chuyển dữ liệu, với các mục tiêu chính sách công hợp
pháp, chẳng hạn như quyền riêng tư, nhằm đảm bảo tự do lưu chuyển thông
tin và dữ liệu toàn cầu, dẫn dắt nền kinh tế Internet và kỹ thuật số. 12
thành viên TPP cũng đồng ý không yêu cầu các công ty TPP thiết lập các
trung tâm dữ liệu để lưu trữ dữ liệu như là một điều kiện để được hoạt
động tại một thị trường TPP và thêm vào đó, mã nguồn của phần mềm không
được yêu cầu lưu chuyển hoặc tiếp cận. Chương này nghiêm cấm việc áp
dụng thuế quan đối với các sản phẩm kỹ thuật số và ngăn chặn các thành
viên TPP tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp
dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật số này thông qua các
biện pháp như thuế phân biệt đối xử hoặc sự ngăn cấm một cách rõ ràng.
Để bảo vệ người tiêu dùng, các thành viên TPP đồng ý thông qua và duy
trì các luật bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến các hoạt động thương
mại gian lận và lừa bịp trực tuyến và đảm bảo rằng sự riêng tư và sự bảo
vệ người tiêu dùng khác sẽ có hiệu lực tại các thị trường TPP. Các
thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt các tin
nhắn thương mại điện tử được gửi đi không do yêu cầu. Để tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại điện tử, chương này bao gồm các quy định khuyến
khích các nước TPP thúc đẩy thương mại không giấy tờ giữa các doanh
nghiệp và chính phủ, chẳng hạn như các mẫu khai thuế quan được đưa ra
dưới dạng điện tử, cũng như cung cấp chứng minh xác thực và chữ ký điện
tử cho các giao dịch thương mại. 12 thành viên TPP đồng ý hợp tác để
giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tận dụng lợi thế của thương mại điện
tử và Chương này khuyến khích hợp tác chính sách liên quan tới việc bảo
vệ thông tin cá nhân, bảo vệ người tiêu dùng trực tuyến, sự đe dọa của
tội phạm máy tính và khả năng của tội phạm máy tính.
15. Mua sắm chính phủ
Các thành viên TPP cùng quan tâm tới mở
cửa thị trường mua sắm chỉnh phủ rộng lớn của nhau thông qua các quy tắc
công bằng, minh bạch, có thể dự đoán, và không phân biệt đối xử. Trong
chương Mua sắm chính phủ, các thành viên TPP cam kết với những nguyên
tắc chính về đối xử quốc gia và không phân biệt đối xử. Các thành viên
cũng đồng ý công bố các thông tin liên quan một cách kịp thời, để các
nhà cung cấp có đủ thời gian nhận được hồ sơ dự thầu và nộp bản chào
thầu, để đối xử với các nhà thầu một cách công bằng, bình đẳng, và để
duy trì tính bảo mật cho các nhà thầu. Thêm vào đó, các thành viên đồng ý
sẽ sử dụng các mô tả kỹ thuật công bằng và khách quan, sẽ chỉ duyệt hợp
đồng dựa trên những tiêu chí đánh giá đã mô tả trong các thông báo và
hồ sơ dự thầu, sẽ xây dựng các quy trình hợp lý để chất vấn hoặc xem xét
các khiếu nại đối với một phê duyệt nào đó. Mỗi thành viên sẽ đưa ra
một danh sách chọn cho các đơn vị mà thành viên đó sẽ xây dựng, được
liệt kê tại phụ lục gắn liền với Hiệp định TPP.
16. Chính sách cạnh tranh
Các thành viên TPP cùng quan tâm bảo đảm
một khung khổ cạnh tranh bình đẳng trong khu vực thông qua những quy
định yêu cầu các thành viên TPP duy trì hệ thống luật pháp cấm những
hành vi kinh doanh phi cạnh tranh, cũng như những hoạt động thương mại
gian lận và lừa đảo, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Các thành viên
TPP đồng ý sẽ thông qua hoặc duy trì hệ thống luật cạnh tranh quốc gia
cấm hành vi kinh doanh phi cạnh tranh và sẽ làm việc để áp dụng những
luật lệ này vào tất cả các hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ
của mình. Để đảm bảo những luật lệ này được thực thi một cách hiệu quả,
các thành viên TPP đồng ý sẽ thành lập hoặc duy trì các cơ quan chức
năng chịu trách nhiệm về việc thực thi luật cạnh tranh quốc gia, và
thông qua hoặc duy trì luật lệ hoặc quy định cấm các hoạt động thương
mại gian lận và lừa đảo gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho
người tiêu dùng. Các thành viên cũng đồng ý sẽ hợp tác, trong trường
hợp có thể, về những vấn đề các bên cùng quan tâm liên quan đến các hoạt
động cạnh tranh. 12 thành viên đồng ý với những nghĩa vụ liên quan đến
thủ tục hợp lý và tính công bằng trong quy trình, cũng như quyền cá nhân
đối với những hành động gây ra tổn hại do vi phạm luật cạnh tranh của
một thành viên. Thêm vào đó, các thành viên TPP đồng ý hợp tác trong
phạm vi chính sách cạnh tranh và thực thi luật cạnh tranh, bao gồm thông
qua thông báo, tham vấn hoặc trao đổi thông tin. Chương này không thuộc
đối tượng điều chỉnh của các quy định về giải quyết tranh chấp của Hiệp
định TPP, nhưng các thành viên TPP có thể tham vấn để xử lý những quan
ngại liên quan đến chương này.
17. Doanh nghiệp Nhà nước (SOEs)
Tất cả các thành viên TPP đều có SOEs,
thường đóng vai trò cung cấp dịch vụ công và các hoạt động khác, nhưng
các thành viên TPP đều nhận thấy lợi ích của việc thống nhất một khung
khổ quy định về cạnh tranh liên quan đến các SOEs. Chương SOEs điều
chỉnh những SOEs chủ yếu tham gia vào các hoạt động thương mại. Các
thành viên nhất trí bảo đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt
động thương mại trên cơ sở tính toán thương mại, trừ trường hợp không
phù hợp với nhiệm vụ mà các SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các
dịch vụ công. Các thành viên cũng đồng ý bảo đảm rằng các SOEs hoặc đơn
vị độc quyền sẵn có không có những hoạt động phân biệt đối xử đối với
các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các thành viên khác. Các thành
viên đồng ý trao cho tòa án quyền tài phán đối với các hoạt động thương
mại của các SOEs nước ngoài và bảo đảm rằng các cơ quan hành chính quản
lý cả các SOEs và doanh nghiệp tư nhân cũng làm như vậy một cách công
bằng. Các thành viên TPP đồng ý sẽ không tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực
đối với lợi ích của các thành viên TPP khác khi cung cấp hỗ trợ phi
thương mại cho các SOEs, hay làm tổn hại đến ngành trong nước của thành
viên khác thông qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại cho SOEs sản
xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ của SOEs khác đó. Các thành viên TPP
đồng ý chia sẻ danh sách các SOEs với các thành viên khác và khi được
yêu cầu sẽ cung cấp các thông tin bổ sung về mức độ sở hữu hoặc kiểm
soát của chính phủ và những hỗ trợ phi thương mại cung cấp cho các SOEs.
Chương này cũng tạo ra các trường hợp ngoại lệ cho các SOEs không có
ảnh hưởng trên thị trường TPP, cũng như những ngoại lệ cụ thể theo từng
nước, được quy định trong các phụ lục, gắn liền với Hiệp định TPP.
18. Sở hữu trí tuệ
Chương Sở hữu trí tuệ (IP) trong TPP
điều chỉnh các lĩnh vực về bằng sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật
thương mại, các hình thức khác của quyền sở hữu trí tuệ, và việc thực
thi các quyền về sở hữu trí tuệ, cũng như các lĩnh vực mà các thành viên
đồng ý hợp tác.
Chương này xây dựng tiêu chuẩn cho bằng
sáng chế, lấy từ Hiệp định TRIPS của WTO và những thông lệ quốc tế tốt
nhất. Về nhãn hiệu, chương này làm rõ và củng cố việc bảo vệ tên nhãn
hiệu và những dấu hiệu khác mà các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng để
phân biệt sản phẩm của họ trên thị trường. Chương này cũng yêu cầu các
thành viên đưa vào cả tính minh bạch và quy trình bảo vệ phù hợp liên
quan đến việc bảo vệ những chỉ dẫn địa lý mới, bao gồm cả những chỉ dẫn
địa lý đã được công nhận hoặc được bảo vệ ở những hiệp định quốc tế
khác. Việc bảo vệ này bao gồm cả việc phân định rõ mối quan hệ giữa nhãn
hiệu và chỉ dẫn địa lý, cũng như việc bảo vệ việc sử dụng những thuật
ngữ thường dùng.
Chương IP sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn
cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm, đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ ở các thị trường mới, và đây là điều rất cấn thiết cho các
doanh nghiệp nhỏ.
Bên cạnh đó, chương này cũng bao gồm
những điều khoản thích hợp liên quan đến dược phẩm tạo điều kiện cho cả
việc phát triển các loại thuốc cứu sinh mới cũng như việc phổ biến các
loại thuốc thông dụng, có tính đến thời gian từng thành viên cần để đáp
ứng được các tiêu chuẩn này. Chương này bao gồm những cam kết liên quan
đến việc bảo vệ mật kết quả thử nghiệm và các dữ liệu khác để có được
quyền marketing dược phẩm và hóa phẩm nông nghiệp. Chương này cũng tái
khẳng định cam kết của các thành viên với Tuyên bố 2001 của WTO về Hiệp
định TRIPS và Sức khỏe cộng đồng và cụ thể là xác nhận rằng các thành
viên không bị hạn chế áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng,
bao gổm cả trong trường hợp có những đại dịch như HIV/AIDS.
Về bản quyền, chương IP xây dựng những
cam kết liên quan đến quyền của người sáng chế, và tạo ra bảo hộ rõ rệt
đối với các tác phẩm như bài hát, phim, sách, và phần mềm, và bao gồm
những điều khoản cân đối và hiệu quả về các biện pháp bảo vệ công nghệ
và thông tin quản lý bản quyền. Bên cạnh các cam kết này, chương này
cũng bao gồm một nghĩa vụ - lần đầu tiên xuất hiện trong bất kỳ hiệp
định thương mại nào – để các thành viên có thể liên tục cố gắng đạt được
sự cân bằng trong hệ thống bản quyền thông qua, trong số những nội dung
khác, những ngoại lệ và hạn chế - bao gồm cả những nội dung trong môi
trường số - để phục vụ những mục đích chính đáng, như phê bình, góp ý,
báo cáo tin tức, dạy học, học bổng, và nghiên cứu. Chương này yêu cầu
các thành viên phải thông qua hoặc duy trì một khung khổ về vùng an toàn
cho các nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP). Các nghĩa vụ này không cho
phép các thành viên tạo ra các vùng an toàn ngẫu nhiên để giám sát hệ
thống của các IPS tìm kiếm nội dung vi phạm.
Chương này yêu cầu các thành viên TPP
cung cấp các công cụ hợp pháp để ngăn ngừa việc sử dụng sai các bí mật
thương mại, và xây dựng các quy trình thủ tục và xử phạt hình sự đối với
tội phạm trộm cắp bí mật thương mại, bao gồm cả trộm cắp qua mạng.
Cuối cùng, các thành viên TPP đồng ý
cung cấp các hệ thống chế tài mạnh, bao gồm cả những quy trình thủ tục
dân sự, các biện pháp tạm thời, các biện phảp quản lý biên giới, và chế
tài hình sự đối với tội giả mạo nhãn hiệu và vi phạm bản quyền.
19. Lao động
Tất cả các thành viên TPP đều là thành
viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và thừa nhận mối liên hệ giữa
quyền của người lao động với thương mại. Trong TPP, các thành viên đồng ý
thông qua và duy trì trong luật và thông lệ của mình các quyền cơ bản
của người lao động như được thừa nhận trong Tuyên bố 1998 của ILO, đó là
quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động
cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em
tồi tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.
Các thành viên cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ
làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Những cam kết này áp dụng cả
với các khu chế xuất. 12 thành viên TPP đồng ý không miễn trừ hoặc giảm
hiệu lực của luật lệ quy định việc thực thi các quyền cơ bản của người
lao động để thu hút thương mại hoặc đầu tư, và sẽ thực thi hiệu quả luật
liên quan đến lao động một cách bền vững hoặc đều đặn có thể có ảnh
hưởng tới thương mại hoặc đầu tư giữa các thành viên TPP. Bên cạnh các
cam kết của các thành viên xóa bỏ lao động cưỡng bức trong nước mình,
chương Lao động bao gồm cả những cam kết không khuyến khích việc nhập
khẩu hàng hóa được sản xuất bằng lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ
em, hoặc sử dụng đầu vào được sản xuất ra bằng lao động cưỡng bức, bất
kể nước xuất xứ có nằm trong TPP hay không. Mỗi thành viên TPP đều cam
kết bảo đảm khả năng tiếp cận với hệ thống thủ tục hành chính và tư pháp
công bằng, không thiên vị và minh bạch và sẽ cung cấp các biện pháp
khắc phục hiệu quả những vi phạm luật lao động của mình. Các thành viên
cũng đồng ý cho phép sự tham gia của công chúng vào việc thực thi chương
Lao động, bao gồm cả việc xây dựng cơ chế tiếp nhận ý kiến đóng góp của
công chúng và đáp ứng các yêu cầu về thông tin.
Các cam kết tại chương này là đối tượng
điều chỉnh của các thủ tục giải quyết khiếu nại được quy định tại chương
Giải quyết tranh chấp. Để thúc đẩy việc giải quyết nhanh các vấn đề về
lao động giữa các thành viên TPP, chương Lao động cũng xây dựng cơ chế
đối thoại mà các thành viên có thể lựa chọn áp dụng để cố gắng giải
quyết bất cứ vấn đề nào về lao động trong chương này giữa các thành
viên. Cơ chế đối thoại này cho phép việc xem xét nhanh các vấn đề và cho
phép các thành viên cùng nhất trí với chương trình hành động để xử lý
vấn đề. Chương Lao động tạo ra một cơ chế hợp tác về các vấn đề về lao
động, bao gồm cả các cơ hội để các bên đóng góp xác định phạm vi hợp tác
và tham gia, nếu phù hợp và các thành viên cùng tham gia, trong các
hoạt động hợp tác.
20. Môi trường
Với tư cách là ngôi nhà đối với của một
phần quan trọng của thế giới hoang dã, các giống cây trồng và sinh vật
biển, các thành viên TPP chia sẻ một cam kết mạnh mẽ nhằm bảo vệ và bảo
tồn môi trường, bao gồm cả việc các thành viên làm việc với nhau nhằm
giải quyết các thách thức về môi trường, ví dụ như ô nhiễm môi trường,
buôn bán động vật hoang dã, khai thác trái phép, đánh bắt trái phép và
bảo vệ môi trường biển. Trong khuôn khổ của Hiệp định TPP, 12 thành viên
nhất trí đối với thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường và không
làm suy giảm hệ thống pháp luật về môi trường nhằm mục đích khuyến khích
thương mại và đầu tư. Các bên cũng nhất trí thực thi các nghĩa vụ theo
Công ước về Thương mại quốc tế đối với các loài động thực vật nguy cấp
(CITES) và thực hiện các biện pháp nhằm đấu tranh và tăng cường hợp tác
để ngăn chặn thương mại về động thực vật hoang dã được tiến hành một
cách bất hợp pháp. Ngoài ra, các thành viên cũng đồng ý thúc đẩy quản lý
phát triển rừng bền vững, bảo vệ và bảo tồn các loài động vật và giống
cây hoang dã được xác định là nguy cấp trong lãnh thổ của nước mình,
trong đó bao gồm cả các hành động mà các Bên tiến hành nhằm bảo tồn toàn
vẹn sinh thái của các vùng tự nhiên được bảo vệ đặc biệt, ví dụ như khu
vực đầm lầy. Trong nỗ lực bảo vệ vùng đại dương chung, các thành viên
TPP nhất trí đối với quản lý bền vững nghề cá, thúc đẩy việc bảo tồn các
loài sinh vật biển quan trọng, ví dụ như cá mập, đấu tranh chống đánh
bắt trái phép, cũng như nghiêm cấm một số hình thức trợ cấp nghề cá có
tác động tiêu cực nhất dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt nguồn tài
nguyên cá. Các hình thức trợ cấp này ảnh hưởng tiêu cực đến dự trữ cá và
tiếp tay cho các hoạt động đánh bắt trái phép, không được thống kê và
không được pháp luật quy định. Các bên nhất trí tăng cường tính minh
bạch liên quan đến các chương trình trợ cấp và nỗ lực hết sức ngăn chặn
việc đưa ra các hình thức trợ cấp mới dẫn đến đánh bắt cạn kiệt và vượt
quá trữ lượng các nguồn tài nguyên.
Các thành viên TPP cũng nhất trí bảo vệ
môi trường biển khỏi ô nhiễm đánh bắt và bảo vệ tầng ô zôn khỏi các chất
gây phá hủy. Các thành viên tái khẳng định cam kết của họ trong việc
thực thi Hiệp định nhiều bên về môi trường (MEAs) mà họ là thành viên.
Các thành viên cam kết minh bạch trong các vấn đề khi đưa ra, thực thi
và thúc đẩy các quyết định về môi trường. Ngoài ra, các thành viên nhất
trí đối với việc tạo điều kiện cho cộng đồng đóng góp đối với việc thực
thi Chương Môi trường thông qua các phiên xem xét và đánh giá việc thành
lập Ủy ban về Môi trường nhằm giám sát việc thực thi chương này. Chương
này cũng bao gồm cam kết về minh bạch hóa trong việc thực thi và tuân
thủ và các đối tượng của quy trình giải quyết tranh chấp được quy định
trong Chương Giải quyết tranh chấp. Các thành viên còn nhất trí khuyến
khích các sáng kiến tự nguyện về môi trường, ví dụ như các chương trình
hợp tác về trách nhiệm xã hội. Cuối cùng, các bên cam kết hợp tác và
giải quyết các vấn đề thuộc mối quan tâm chung, trong đó bao gồm các khu
vực bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, và thời gian chuyển
đổi sang các nền kinh tế có mức khí thải thấp và phát triển bền vững.
21. Hợp tác và Nâng cao năng lực
12 nền kinh tế thành viên TPP rất đa
dạng về trình độ phát triển. Mọi thành viên đều nhận thức rằng các thành
viên kém phát triển hơn của Hiệp định TPP có thể phải đối mặt với các
thách thức nhất định khi thực thi hiệp định, tận dụng tối đa lợi thế về
cơ hội do hiệp định này tạo ra và đảm bảo sự tham gia đầy đủ của các
doanh nghiệp nhỏ hơn, cộng đồng vùng nông thôn, phụ nữ và các nhóm thu
nhập xã hội thấp hơn. Nhằm giải quyết các thách thức trên, Chương Hợp
tác và Nâng cao năng lực thiết lập một Ủy ban về Hợp tác và Nâng cao
năng lực nhằm phát hiện và rà soát các khu vực có tiềm năng hợp tác và
xây dựng năng lực trên cơ sở tự nguyện và sự sẵn có của các nguồn lực.
Ủy ban này sẽ thúc đẩy trao đổi thông tin nhằm hỗ trợ các yêu cầu về hợp
tác và nâng cao năng lực.
22. Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh
Chương Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh
doanh nhằm mục tiêu giúp cho TPP đạt được các tiềm năng của khu vực nhằm
phát triển sức cạnh tranh của các thành viên tham gia hiệp định và của
cả khu vực nói chung. Chương này tạo nên các cơ chế chính thức nhằm rà
soát tác động của TPP lên sức cạnh tranh của các thành viên thông qua
các cuộc đối thoại giữa các chính phủ và giữa chính phủ với doanh nghiệp
và cộng đồng, tập trung tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực nhằm
đánh giá sự phát triển, tận dụng lợi thế của các cơ hội mới, và giải
quyết bất cứ các thách thức có thể nổi lên khi Hiệp định TPP có hiệu
lực. Trong số các giải pháp này có việc thành lập Ủy ban về Cạnh tranh
và Tạo thuận lợi kinh doanh. Ủy ban này sẽ nhóm họp thường xuyên nhằm rà
soát tác động của Hiệp định TPP lên sức cạnh tranh của khu vực và quốc
gia, và lên hệ thống kinh tế khu vực. Ủy ban sẽ xem xét các khuyến nghị
và đề xuất từ các đối tượng liên quan đối với các cách thức mà Hiệp định
TPP có thể thúc đẩy hơn nữa sự cạnh tranh, bao gồm cả việc tăng cường
sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào chuỗi cung ứng khu vực.
Chương này cũng thiết lập một khung cơ bản dành cho Ủy ban để đánh giá
hoạt động của chuỗi cung ứng theo Hiệp định, trong đó bao gồm các cách
thức để thúc đẩy sự tham gia của SME vào chuỗi cung ứng và rà soát đóng
góp của các đố tượng liên quan và các chuyên gia.
23. Phát triển
Các thành viên TPP tìm kiếm giải pháp
nhằm đảm bảo Hiệp định TPP sẽ là một hình mẫu của sự hội nhập thương mại
và kinh tế tiêu chuẩn cao, và đặc biệt nhằm đảm bảo mọi Thành viên TPP
có thể thu được các lợi ích từ hiệp định, có đầy đủ năng lực để thực thi
các cam kết của mình và nổi lên như các nền kinh tế thịnh vượng hơn và
thị trường mạnh mẽ hơn cho tất cả các thành viên. Chương Phát triển gồm
có 3 lĩnh vực cơ bản được coi như dành cho các chương trình hợp tác khi
Hiệp định có hiệu lực. Các lĩnh vực này bao gồm: (1) tăng trưởng kinh tế
toàn diện và cơ bản bao gồm có phát triển bền vững, giảm đói nghèo và
thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ; (2) thúc đẩy phụ nữ và kinh tế, trong đó
có việc hỗ trợ phụ nữ xây dựng năng lực và các kỹ năng, tăng cường sự
tiếp cận của phụ nữ với thị trường, đạt được kỹ năng về công nghệ thông
tin và tài chính, thiết lập mạng lưới lãnh đạo nữ giới, và chỉ ra các
thực tiễn tốt nhất trong ứng dụng linh hoạt trong môi trường công việc;
và (3) giáo dục, khoa học và công nghệ, nghiên cứu và sáng tạo. Chương
này cũng thiết lập Ủy ban TPP về phát triển - là cơ quan sẽ nhóm họp
thường xuyên để thúc đẩy các chương trình hợp tác tự nguyện trong các
lĩnh vực này và các cơ hội mới khi nó phát sinh.
24. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các nước TPP chia sẻ mối quan tâm đến
việc thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vào thương mại
và bảo đảm rằng các doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ các lợi ích của
Hiệp định TPP. Bên cạnh những cam kết tại các chương khác của Hiệp định
về tiếp cận thị trường, giảm các công việc giấy tờ, tiếp cận internet,
thuận lợi hóa thương mại, chuyển phát nhanh và các nội dung khác, Chương
về Doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm các cam kết của mỗi bên về thiết lập
một trang web thân thiện với người sử dụng dành cho đối tượng sử dụng
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ để dễ dàng tiếp cận các thông tin về Hiệp
định TPP và những cách thức mà các doanh nghiệp nhỏ có thể tận dụng
Hiệp định này, bao gồm cả việc diễn giải các điều khoản của Hiệp định
TPP liên quan tới doanh nghiệp vừa và nhỏ; các quy định và thủ tục liên
quan tới quyền sở hữu trí tuệ; các quy định về đầu tư nước ngoài; các
thủ tục về đăng ký kinh doanh; các quy định về lao động và các thông tin
về thuế. Ngoài ra, Chương này quy định việc thành lập Ủy ban Doanh
nghiệp vừa và nhỏ được tiến hành họp định kỳ để rà soát mức độ hỗ trợ
của Hiệp định TPP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cân nhắc các cách
thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của Hiệp định và giám sát các
hoạt động hợp tác hoặc nâng cao năng lực để hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ thông qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ; chia sẻ thông tin; cấp vốn thương mại và các hoạt động khác.
25. Gắn kết môi trường chính sách
Chương Gắn kết môi trường chính sách của
TPP sẽ giúp mở ra một môi trường thông thoáng, bình đẳng và dễ dự đoán
dành cho các doanh nghiệp hoạt động trên các thị trường TPP bằng cách
khuyến khích minh bạch hóa, công bằng và hợp tác giữa các chính phủ để
đạt được một phương thức tiếp cận chính sách một cách gắn kết. Chương
này nhằm mục đích tạo thuận lợi về gắn kết môi trường chính sách tại mỗi
quốc gia TPP bằng việc thúc đẩy các cơ chế cho quá trình tham vấn và
hợp tác giữa các cơ quan nội bộ một cách hiệu quả. Chương này cũng
khuyến khích việc chấp nhận rộng rãi các chính sách tốt, ví dụ như các
đánh giá tác động của các biện pháp chính sách được đề xuất, trao đổi
thông tin của các nhóm nền tảng cho quá trình chọn lựa các chính sách
thay thế và bản chất của chính sách được giới thiệu. Chương này còn bao
gồm các điều khoản nhằm giúp đảm bảo các chính sách rõ ràng, chính xác
về mặt văn bản, theo đó cộng đồng có thể tiếp cận thông tin đối với các
biện pháp chính sách mới, nếu có thể thì theo hình thức trực tuyến, và
các biện pháp chính sách hiện hành đã được rà soát định kỳ nhằm quyết
định xem các biện pháp đó đang còn là các công cụ hiệu quả nhất để đạt
được các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, chương cũng khuyến khích các chính
phủ TPP cung cấp các thông báo thường niên về tất cả các biện pháp chính
sách mà chính phủ đó định thực hiện. Cuối cùng, chương cũng thiết lập
một Ủy ban mà theo đó sẽ cung cấp cho các quốc gia TPP, doanh nghiệp và
cộng đồng tiếp tục có các cơ hội báo cáo về quá trình thực thi, chia sẻ
kinh nghiệm về các thực tiễn tốt nhất, và xem xét các khu vực có tiềm
năng hợp tác. Chương này, dưới bất kỳ hình thức nào, không ảnh hưởng đến
quyền của các thành viên trong việc đưa ra các chính sách về sức khỏe
cộng đồng, an toàn, an ninh và các lý do vì lợi ích công cộng khác.
26. Minh bạch hóa và chống tham nhũng
Chương Minh bạch hóa và chống tham nhũng
có mục đích thúc đẩy các mục tiêu, được chia sẻ bởi toàn bộ các Bên
tham gia Hiệp định, tăng cường quản trị tốt và xử lý những ảnh hưởng xói
mòn của việc hối lộ và tham nhũng lên nền kinh tế. Theo Chương này, các
bên tham gia TPP phải đảm bảo rằng, trong chừng mực có thể, luật pháp,
quy định và các quy chế hành chính có liên quan tới bất kỳ vấn đề nào
được quy định bởi Hiệp định TPP sẽ được công bố công khai và tiếp nhận
các nhận xét. Các bên sẽ đảm bảo quyền lợi theo quy trình thủ tục đối
với tố tụng hành chính cho các bên liên quan đến TPP, bao gồm việc nhanh
chóng xem xét thông qua các tòa án hoặc thủ tục tố tụng hành chính hoặc
quan tòa công bằng. Các Bên cũng đồng ý áp dụng hoặc duy trì luật hình
sự hóa đối với việc cung cấp những lợi ích không chính đáng của một công
chức hay những hành động hối lộ khác có ảnh hưởng đến đầu tư và thương
mại quốc tế. Các bên cũng cam kết sẽ áp dụng hiệu quả các quy định và
luật pháp về chống hối lộ. Hơn nữa, các bên đồng ý nỗ lực duy trì hoặc
áp dụng các tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử của các công chức cũng như các
biện pháp nhằm xác định và quản lý xung đột lợi ích, qua đó tăng cường
đào tạo công chức, tránh việc xử dụng quà tặng, khuyến khích việc thông
báo về các hành động hối lộ và có hình thức kỷ luật hoặc các biện pháp
khác đối với các công chức có hành động hối lộ. Trong một Phụ lục của
Chương này, các Bên TPP cũng đồng ý với các điều khoản thúc đẩy tính
minh bạch và quy trình liên quan đến danh sách và các chi phí cho các
sản phẩm dược phẩm hoặc các thiết bị y tế. Các cam kết trong phụ lục này
không thuộc đối tượng của thủ tục giải quyết tranh chấp.
27. Các điều khoản về hành chính và thể chế
Chương về Các điều khoản hành chính và
thể chế của TPP xây dựng một khung thể chế thông qua đó các Bên có thể
đánh giá và hướng dẫn việc thực hiện hoặc hoạt động của Hiệp định, đặc
biệt bằng việc thành lập Ủy ban TPP, bao gồm các Bộ trưởng hoặc các quan
chức cấp cao, giám sát hoạt động và quá trình thực thi Hiệp định và
định hướng phát triển tương lai. Ủy ban này sẽ rà soát mối quan hệ kinh
tế và đối tác giữa các bên theo định kỳ để đảm bảo duy trì liên kết chặt
chẽ với những thách thức mà cách bên gặp phải. Mọi sửa đổi cần có sự
đồng thuận và kết luật thông qua các thủ tục pháp lý của các bên. Chương
này cũng cung cấp thông tin về đầu mối liên lạc của các bên để tạo
thuận lợi cho trao đổi và tạo ra một cơ chế để những bên có thời hạn
chuyển đổi cụ thể đối với một nghĩa vụ nào đó có thể báo cáo về tiến
trình thực hiện và định hướng nhằm đảm bảo tính minh bạch trong việc
thực hiện các nghĩa vụ.
28. Giải quyết tranh chấp
Chương về Giải quyết tranh chấp có mục
tiêu nhanh chóng giúp đỡ các bên giải quyết những vướng mắc trong quá
trình thực hiện Hiệp định TPP. Các bên TPP có mục tiêu là giải quyết các
tranh chấp thông qua tham vấn và khi cần thiết có thể thông qua các Ban
hội thẩm công bằng, không thiên vị. Cơ chế giải quyết tranh chấp đề ra
trong Chương này áp dụng cho toàn bộ Hiệp định TPP, trừ một số ít trường
hợp đặc biệt. Công chúng có thể theo dõi tiến trình tố tụng từ thời
điểm các đệ trình được công bố, công chúng cũng có thể theo dõi phiên
điều trần và báo cáo cuối cùng của các Ban hội thẩm cũng sẽ được công
bố. Các Ban hội thẩm cũng sẽ cân nhắc các yêu cung cấp quan điểm tới vụ
tranh chấp từ của các đơn vị phi chính phủ hoạt động trong lãnh thổ của
bất kỳ bên tranh chấp nào. Các Bên TPP sẽ nỗ lực hết sức nhằm giải quyết
tranh chấp thông qua hợp tác và tham vấn và được khuyến khích sử dụng
các cơ chế giải quyết tranh chấp khác nếu phù hợp. Trong trường hợp tham
vấn thất bại, các bên có thể yêu cầu thành lập một Ban hội thẩm, được
thành lập trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu tham vấn hoặc 30 ngày
đối với hàng hóa mau hỏng. Ban Hội thẩm sẽ bao gồm 3 chuyên gia độc lập
về thương mại quốc tế và có liên quan tới lĩnh vực tranh chấp cùng với
một quy trình thủ tục để chắc chắn rằng Ban Hội thẩm sẽ được thành lập
trong một khoảng thời gian nhất định ngay cả khi các bên không thống
nhất được về thành phần của Ban. Ban Hội thẩm sẽ tuân theo một quy tắc
ứng xử chung nhằm đảm bảo tính thống nhất của cơ chế giải quyết tranh
chấp. Ban Hội thẩm sẽ có một báo cáo ban đầu trong vòng 150 ngày kể tư
khi thành viên cuối cùng của Ban được chỉ định hoặc 120 ngày trong
trường hợp khẩn cấp, như là trường hợp liên quan tới các hàng hóa dễ
hỏng. Báo cáo ban đầu này sẽ là báo cáo mật và các bên có thể nhận xét
bổ sung. Báo cáo cuối cùng sẽ được hoàn thành trong vòng 30 ngày kể từ
ngày có báo cáo ban đầu và phải được công báo trong vòng 15 ngày nhưng
các thông tin mật sẽ được giữ kín. Để đảm bảo các bên sẽ tuân thủ,
Chương giải quyết tranh chấp cho phép sử dụng trả đũa thương mại (ví dụ
như ngừng không cho hưởng lợi ích), nếu một bên không tuân thủ với nghĩa
vụ của mình. Trước khi sử dụng biện pháp trả đũa thương mại, bên không
tuân thủ có thể thảo luận hoặc yêu cầu một khoảng thời gian hợp lý để
khắc phục các vi phạm của mình.
29. Ngoại lệ
Chương về Ngoại lệ mang lại các linh
hoạt cho các bên trong Hiệp định TPP để đảm bảo đầy đủ quyền lợi chung,
bao gồm lợi ích an ninh cơ bản và các phúc lợi công. Chương này kết hợp
các ngoại lệ chung trong Điều XX của Hiệp định chung về Thương mại và
thuế quan 1994 cho các điều khoản liên quan tới hàng hóa thương mại,
theo đó Hiệp định TPP sẽ không ngăn cản các bên áp dụng hoặc thực thi
các biện pháp cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng, bảo về đời sống
hoặc sức khỏe con người, động hoặc thực vật, bảo vệ sở hữu trí tuệ, thực
thi các biện pháp liên quan tới các sản phẩm của lao động tù nhân, để
bảo vệ tài sản quốc gia giá trị nghệ thuật, lịch sử, hoặc khảo cổ và bảo
tồn các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Chương này cũng bao gồm các ngoại
lệ chung tương tự như trong Điều XIV của Hiệp định chung về Thương mại
dịch vụ liên quan tới các điều khoản liên quan tới thương mại dịch vụ.
Chương này bao gồm cả ngoại lệ về tự đánh giá áp dụng chung cho toàn bộ
Hiệp định TPP, theo đó một bên có thể sử dụng các biện pháp mà họ thấy
cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh cơ bản. Chương này cũng xác định các
hoàn cảnh cụ thể và điều kiện mà theo đó một bên có thể áp dụng các
biện pháp tự vệ tạm thời (ví dụ như kiểm soát vốn) để hạn chế giao dịch -
ví dụ như góp vốn, chuyển lợi nhuận và cổ tức, thanh toán lãi hoặc tiền
bản quyền - đối với các khoản đầu tư, để đảm bảo chính phủ duy trì linh
hoạt để quản lý dòng vốn biến động, bao gồm bối cảnh của cán cân thanh
toán hoặc các khủng hoảng kinh tế khác. Hơn nữa, chương này cũng xác
định rõ rằng trong Hiệp định TPP không bên nào bị ép buộc phải cung cấp
thông tin nếu đi ngược lại quy định pháp luật trong nước hoặc lợi ích
cộng đồng, hoặc phương hại đến lợi ích thương mại hợp pháp của doanh
nghiệp cụ thể.
30. Các điều khoản cuối cùng
Chương về Các điều khoản cuối cùng là về
những hình thức mà Hiệp định TPP sẽ có hiệu lực, những hình thức sửa
đổi cam kết, những quy tắc xây dựng tiến trình để các nước và vùng lãnh
thổ khác có thể gia nhập TPP sau này, các hình thức rút ra khỏi Hiệp
định và ngôn ngữ chính được xử dụng để công bố. Chương này nhằm đàm bảo
các cam kết trong Hiệp định TPP có thể được sửa đổi, nhưng chỉ sau khi
mỗi bên đã hoàn tất thủ tục trong nước và nộp lưu chiểu. Chương này cũng
quy định rõ rằng Hiệp định TPP mở cho các nước thuộc thành viên của
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương và những quốc gia hoặc
vùng lãnh thổ khác gia nhập nếu được các bên đồng thuận. Hiệp định TPP
sẽ có hiệu lực theo các thủ tục cần thiết được quy định tại Chương này.
Chương về các điều khoản cuối cùng cũng quy định rõ quy trình để một bên
có thể rút ra khỏi Hiệp định, chỉ định một cơ quan lưu chiểu để tiếp
nhận và cung cấp tài liệu, và cũng xác định tiếng Anh, Tây Ban Nha và
Pháp là những ngôn ngữ chính đồng thời được sử dụng cho Hiệp định.
Từ khóa:
TPP
CÙNG CHUYÊN MỤC
- Thoái 30% vốn nhà nước tại Tổng công ty TEDI
- HN đẩy mạnh thu nợ thuế, Đà Nẵng quyết liệt...
- Xây dựng ngành Than thành ngành công nghiệp phát triển
- Giúp nông dân tiếp cận vốn tín dụng hiệu quả
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nông nghiệp: Thu về gần...
- Quy định chặt chẽ việc quản lý, sử dụng ODA
- DN cần chủ động chấp nhận cạnh tranh trong hội...
0 Comments