Công
tác người đọc hay việc tổ chức phục vụ tài liệu cho người đọc là một
hoạt động của thư viện nhằm thúc đẩy, phát triển và thoả mãn nhu cầu,
hứng thú đọc tài liệu thông qua việc tuyên truyền, hướng dẫn và cung cấp
tài liệu dưới nhiều hình thức. Công tác người đọc bao gồm các hình thức
tổ chức và phương pháp phục vụ người đọc ở trong và ngoài thư viện.
Đồng thời công tác người đọc còn là thước đo hiệu quả luân chuyển tài
liệu và tác dụng của nó trong đời sống.
Với ý nghĩa đó “Công
tác người đọc luôn được coi là công tác quan trọng nhất của thư viện.
Bởi vì, thông qua công tác này vốn tài liệu quý giá của thư viện mới
được sử dụng có hiệu quả, mới phát huy được tác dụng trong phát triển
mọi mặt của đất nước, từ đó vị trí, vai trò xã hội của thư viện mới được
khẳng định” (1). Trong thực tiễn hoạt động của các thư
viện và cơ quan thông tin cho thấy công tác người đọc có rất nhiều vai
trò khác nhau song nổi bật là công tác người đọc được ví như “chiếc cầu”
nối liền người đọc với vốn tài liệu thông qua vai trò của người cán bộ
thư viện. Thông qua công tác người đọc vốn tài liệu của thư viện được
khai thác, sử dụng và thư viện có thể tìm hiểu và nắm được nhu cầu đọc,
nhu cầu tin của người đọc và chính điều đó là cơ sở của các hoạt động
khác trong thư viện.
Nhận thức được đầy đủ vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác phục vụ
người đọc trong thư viện nói riêng và trong xã hội nói chung, trong
những năm gần đây công tác phục vụ người đọc của các thư viện ở nước ta
đã và đang đạt được nhiều tiến bộ trên các mặt hoạt động:
Trước đây, hầu hết các Thư viện Việt Nam như: các thư viện công cộng,
thư viện chuyên ngành hoặc các thư viện trường đại học đều chọn hình
thức phục vụ thông qua phiếu yêu cầu. Ngày nay với sự trợ giúp của các
thiết bị kiểm soát tài liệu như camera, cổng từ,… để rút ngắn thời gian
tra tìm tài liệu, chờ mượn tài liệu, giảm bớt công sức của cán bộ thư
viện và đồng thời kích thích nhu cầu đọc, nhu cầu tin, tạo điều kiện cho
người đọc được tiếp xúc trực tiếp với tài liệu, nhiều thư viện đã
chuyển sang hình thức phục vụ tự chọn. Đây là hình thức phục vụ có nhiều
ưu điểm, được áp dụng phổ biến trong thư viện của các nước tiên tiến,
rất phù hợp với việc lưu thông tài liệu (mượn và trả tài liệu) trong các
thư viện hiện đại có sử dụng phần mềm quản trị thư viện tích hợp cho
phép quản lý người đọc và tài liệu bằng mã vạch, quản lý việc mượn, trả
tài liệu qua đầu đọc (barcode scanner) cầm tay hay tự động.
Để thoả mãn nhu cầu tin của người đọc, những năm gần đây ngoài việc duy
trì và nâng cao chất lượng dịch vụ đọc và mượn tài liệu, các thư viện
đã và đang phát triển nhiều dạng dịch vụ như dịch vụ tra cứu (tham khảo –
reference service), tham khảo số (digital reference service), cung cấp
thông tin chọn lọc, tra cứu trực tuyến, sử dụng tài liệu điện tử với các
CSDL toàn văn (tài liệu số hoá), nhân bản tài liệu, khai thác internet,
giải đáp thông tin qua điện thoại, truyền tệp,… Ví dụ như Thư viện Quốc
gia Việt Nam, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Trung
tâm Thông tin Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Học liệu -
Đại học Huế, Trung tâm học liệu - Đại học Cần Thơ,… đã cho phép người
đọc tra cứu CSDL thư mục từ xa; Trung tâm Thông tin Khoa học và Công
nghệ Quốc gia Việt Nam, Thư viện Đại học RMIT cho phép người đọc khai
thác tài liệu toàn văn trên mạng. Thư viện tỉnh Cần Thơ, Thư viện TP. Hồ
Chí Minh đang cung cấp dịch vụ giải đáp thông tin qua điện thoại.
Hơn nữa, ngày nay các thư viện đã nhanh chóng ứng dụng công nghệ thông
tin và công nghệ truyền thông vào quản lý các hoạt động của thư viện,
trong đó có hoạt động quản lý người đọc và lưu thông tài liệu. Phần mềm
CDS/ISIS đã được các thư viện Việt Nam ứng dụng từ lâu, nhưng phần mềm
này chỉ cho phép chúng ta quản lý và tra cứu tài liệu. Đến nay chúng ta
đã sử dụng nhiều phần mềm tích hợp quản trị thư viện khác nhau như
Libol, Ilib, và một số phần mềm của nước ngoài để quản lý việc lưu thông
tài liệu và bạn đọc. Cụ thể các phần mềm này đã giải quyết được một số
công việc như: ghi mượn và trả tài liệu tự động hoặc qua đầu đọc
(barcode scanner) cầm tay, thống kê tài liệu, thống kê lượt đọc, quản lý
người đọc qua việc mượn trả như sách quá hạn, gia hạn, đặt trước, giữ
lại, cấp phát và gia hạn thẻ tại chỗ hoặc từ xa...
Để nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc chúng ta không thể
phủ nhận vai trò của người cán bộ thư viện. Có nhiều quan điểm đánh giá
khác nhau về vai trò của người cán bộ thư viện, có những học giả cho
rằng trong thư viện, máy móc kỹ thuật mới là điều quyết định sự thành
công của thư viện, co quan điểm lại cho rằng trong thư viện người cán bộ
(thủ thư) mới là quan trọng. James I. Wyer một học giả Mỹ ngay từ năm
1923 đã cho rằng người cán bộ thư viện chính là linh hồn của thư viện.
Thực tiễn cho chúng ta thấy ngày nay với sự xuất hiện của một số loại
hình thư viện mới như thư viện điện tử, thư viện ảo... song vai trò của
người cán bộ thủ thư không mất đi mà trở nên quan trọng hơn bao giờ hết,
đòi hỏi người cán bộ thủ thư luôn phải nâng cao trình độ thì mới có khả
năng đáp ứng được các yêu cầu phức tạp và đa dạng của người đọc, người
dùng tin. Nếu như trong các thư viện truyền thống, cán bộ thủ thư giữ
vai trò chính trong việc trực tiếp tiếp nhận yêu cầu và lấy tài liệu
phục vụ thì trong các thư viện ảo người thủ thư tiếp nhận, trả lời các
yêu cầu tin, và giao tiếp với người đọc, người dùng tin qua mạng với
dịch vụ tham khảo ảo 24/7, hoặc qua điện thoại... Ngày nay do nhận thức
đúng đắn về vai trò của cán bộ thủ thư, nhiều thư viện luôn ưu tiên
những cán bộ trẻ, năng động, có kỹ năng tra cứu thông tin, có phương
pháp trao đổi với người đọc tốt phục vụ ở tuyến trước (phục vụ người
đọc). Đặc biệt tại một số thư viện như Trung tâm Học liệu - Đại học Huế,
Trung tâm học liệu - Đại học Cần Thơ, Thư viện trường Đại học RMIT tại
Hà Nội, ngoài bàn lưu thông tài liệu (quản lý việc mượn và trả tài liệu)
họ đã tổ chức được bàn tham khảo là nơi tiếp nhận và trả lời bất cứ yêu
cầu tin nào của người đọc.
Bên cạnh việc chú ý đến nâng cao chất lượng cán bộ, đầu tư mua sắm
trang thiết bị hiện đại cho thư viện, ứng dụng công nghệ thông tin vào
các hoạt động của thư viện thì công tác đào tạo người dùng tin là nhiệm
vụ được các thư viện hết sức quan tâm. Người đọc, người dùng tin là một
trong bốn yếu tố cấu thành thư viện và theo chúng tôi người đọc là yếu
tố “trung tâm”, điều này có nghĩa là tất cả các hoạt động của thư viện
suy cho cùng cũng nhằm đáp ứng được các nhu cầu đọc và nhu cầu tin của
người đọc, do vậy tất cả các hoạt động liên quan đến khâu phục vụ của
thư viện đều cần được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu người đọc. Theo như
mục tiêu của Hội thư viện Mỹ và Úc, các thư viện không chỉ có nhiệm vụ
trong việc thoả mãn nhu cầu tin của người đọc mà còn có trách nhiệm
trong việc giúp cho người đọc có được những kỹ năng thông tin
(information literacies) bao gồm khả năng xác định nguồn tin, tìm kiếm
và đánh giá chất lượng thông tin(2). Để từng bước nâng cao
trình độ sử dụng thư viện, những năm gần đây các thư viện ở Việt Nam đã
có rất nhiều cố gắng trong việc đào tạo người dùng tin bằng nhiều hình
thức khác nhau. Cụ thể là các thư viện đại học đều mở các lớp hướng dẫn
sử dụng thư viện vào đầu các năm học cho sinh viên mới. Đặc biệt Thư
viện Trường Đại học RMIT đã thực hiện việc hướng dẫn tra cứu CSDL cho
người đọc vào chiều thứ sáu hàng tuần; hai tuần có một workshop về đào
tạo người đọc sử dụng thư viện và ngoài ra còn giúp người đọc tìm kiếm
thông tin theo chuyên đề. Hơn nữa, để giúp đỡ trong việc tra cứu thông
tin hay tự chọn tài liệu, nhiều thư viện như Thư viện Quốc gia Việt Nam,
Thư viện Trường Đại học RMIT… đã dán các chỉ dẫn ở đầu các giá sách,
bên cạnh máy tính dùng tra cứu, phát tài liệu hướng dẫn cho sinh viên và
gửi email cho họ hoặc thiết kế các giao diện màn hình dễ sử dụng có
phần trợ giúp tra cứu tìm kiếm thông tin(4).
Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc trong
những năm tới các thư viện nên tập trung đầu tư vào một số mặt then chốt
như:
+ Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình
quản lý người đọc và quản lý tài liệu. Các thư viện cần tăng cường mở nhiều
phòng đọc tự chọn hơn nữa cùng với việc cho mượn tài liệu tự động, xem
tình trạng sách, gia hạn, giữ chỗ, tham khảo qua mạng... Nếu như các thư
viện tổ chức được dịch vụ mượn tài liệu tự động thì sẽ đem lại được rất
nhiều lợi ích cho cả phía người đọc và thư viện, một mặt thông qua dịch
vụ này thư viện sẽ giảm được số lượng cán bộ thủ thư phục vụ và làm thủ
tục cho mượn, nâng cao được chất lượng, hiệu quả phục vụ trong các thư
viện bằng cách loại bỏ các thao tác thủ công, đơn giản từ đó sẽ làm tăng
vai trò và uy tín của thủ thư trước con mắt người đọc; mặt khác người
đọc sẽ không mất nhiều thời gian trong việc chờ mượn tài liệu, họ có
điều kiện được tiếp cận trực tiếp với sách, tự lựa chọn sách điều đó sẽ
giúp người đọc nảy sinh nhiều nhu cầu đọc và hứng thú đọc mới, hấp dẫn
với người đọc vì nó tăng tính trực quan.
+ Tăng cường đào tạo cán bộ thông tin có các kỹ năng sau:
1. Nhận dạng đúng các yêu cầu tin
2. Truy cập thông tin có hiệu quả và đúng theo pháp lý
3. Đánh giá thông tin và nguồn tin có phê phán
4. Hiểu được các vấn đề về văn hoá, chính trị, xã hội, pháp lý và kinh tế trong việc sử dụng thông tin
5. Có kỹ năng giao tiếp hiệu quả với đa dạng nhóm người dùng tin
6. Có khả năng tra cứu thông tin trên mạng, sử dụng thành thạo các công cụ tham khảo, bao quát được các nguồn tin
7. Khả năng giải quyết các tình huống trong quá trình phục vụ người đọc.
+ Các thư viện nên tổ chức bàn tham khảo - mô hình mà hầu như tất cả
các thư viện ở nước ngoài tổ chức. Hiện nay tại Việt Nam mô hình này đã
được triển khai tại Trung tâm Học liệu - Đại học Huế và Cần Thơ, Đại học
RMIT. Bàn tham khảo không chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn người đọc tra cứu
cơ sở dữ liệu, sử dụng bộ máy tra cứu, hướng dẫn sử dụng thư viện của
mình mà còn có nhiệm vụ tiếp nhận các loại yêu cầu tin (có thể yêu cầu
tìm các tài liệu cụ thể, hoặc tìm theo chuyên đề, hoặc có thể là trả lời
các số liệu thống kê, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn…).
+ Tăng cường công tác nghiên cứu nhu cầu tin định kỳ và thường xuyên xây dựng chương trình đào tạo người dùng tin hiệu quả.
+ Trong điều kiện cho phép các thư viện đại học nên xem xét mở một số
phòng tự học, phòng thảo luận nhóm vệ tinh xung quanh phạm vi phòng đọc
để tạo môi trường tự học cho sinh viên, trợ giúp đắc lực cho phương pháp
giảng dạy mới tức là biến quá trình học thành quá trình tự học.
Tài liệu tham khảo
1.
Phạm Thế Khang. Nâng cao hiệu quả phục vụ bạn đọc của hệ thống thư viện
công cộng // Công tác phục vụ bạn đọc của hệ thống thư viện công cộng:
Kỷ yếu hội nghị . - Lạng sơn : TVQG, 2003 . - tr.12
2.
Alan Bundy. Overview in Australia and New Zealand information literacy
framework : Principles, standards and practice . - ANZIIL, 2004 . - 2ed .
- p3-9
3. James I. Wyer. The soul of the library . - New York : Public library, 1923 . - p3-8
4. http://www.rmit.edu.vn/library . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006
5. http://www.nlv.gov.vn . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006
6. http://www.ctu.edu.vn/library . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006
7. http://www.uct.edu.vn/thuvien . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006
8. http://www.vista.gov.vn . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006
9. http://www.lrc-hueuni.edu.vn/index.asp . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006
___________________
Trương Đại Lượng - Nguyễn Hữu Nghĩa: Khoa Thư viện Thông tin, Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội
(Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam)
| < Prev | Next > |
|---|
Đọc thêm cùng chuyên mục:
- Xu hướng phát triển của OPAC thư viện
- Bàn về khái niệm “Tài liệu quý hiếm”
- Áp dụng các chuẩn nghiệp vụ quốc tế ở Việt Nam
- Sử dụng các khung phân loại thư viện để tìm tài nguyên trên Internet
- Đường Cách mệnh đã đặt nền móng cho sự nghiệp Thư viện Cách mạng Việt Nam
- Về vấn đề áp dụng thống nhất AACR2 trong giảng dạy và trong công tác biên mục ở các cơ quan thông tin, thư viện Việt Nam
- 10 năm giảng dạy và quảng bá DDC (1998-2008)
- Semantic Web và thư viện số
- Thư viện đại học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
- Xây dựng mục lục liên hợp trực tuyến cho hệ thống thư viện công cộng


0 Comments