1.    Mô hình Learning Commons

Learning Commons (tạm dịch: Không gian học tập chung) là một thuật ngữ xuất hiện tại Hoa Kỳ vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, như tại Thư viện ĐH Iowa (1992), Thư viện ĐH Nam California (1994)... Trải qua các mốc thời gian phát triển khác nhau, đến nay Không gian học tập chung (KGHTC) đã trở thành một thuật ngữ thịnh hành, cùng với hàng trăm KGHTC được xây dựng trên khắp thế giới, bắt đầu từ hệ thống thư viện đại học và phát triển đến hệ thống thư viện trường học.

KGHTC là một không gian học tập mang tính chất cộng đồng, nơi để học tập, nghiên cứu, tranh luận trí tuệ, truy cập tài nguyên học thuật và cung ứng kỹ thuật. Sinh viên, nhân viên và giảng viên được khuyến khích sử dụng những không gian này cho công việc chuyên môn, công việc học tập, phục vụ học tập và nhu cầu giải trí. KGHTC tạo ra hai môi trường vật lý và môi trường ảo với những điều kiện thuận lợi cho việc tự học, tự nghiên cứu, thư giãn và khơi gợi tính sáng tạo trong mỗi cá nhân.

KGHTC đi sâu vào việc phát triển và ứng dụng công nghệ trong hoạt động Thư viện nhưng ở một mức độ cao hơn. Đó là sự áp dụng công nghệ ở mọi lúc, mọi nơi trong mọi lĩnh vực và thay đổi quan điểm về mối liên kết giữa NDT và nhân viên thư viện trong thư viện truyền thống. Cùng với quá trình ứng dụng công nghệ triệt để, KGHTC xác định một định hướng cần thiết và quan trọng trong việc xây dựng một không gian học tập phải đảm bảo các yếu tố: tiện lợi, thoải mái và đáp ứng tất cả những nhu cầu khác nhau của NDT.

Bên cạnh thuật ngữ Learning Commons, trên thế giới còn tồn tại song song các thuật ngữ khác như Hub (Adelaide University Libraries), Scholars’ Commons (Florida State University Libraries), Digital Commons (Kent State University Libraries), Media Commons (University of Illinois)... Trong đó, “Commons” hầu như luôn là một thuật ngữ đính kèm với hầu hết các thuật ngữ còn lại. Như vậy, “Commons” mang một ý nghĩa tạo nên sự khác biệt mà chính nó sẽ khiến các mô hình này trở nên đặc biệt hơn đối với thư viện truyền thống.

Ngược dòng lịch sử, vào khoảng thế kỷ XVI, khi giai cấp tư sản đã xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến châu Âu, xã hội đã có sự phân hóa thành các tầng lớp: quý tộc phong kiến, địa chủ tư bản và nông dân thì cũng chính là lúc một thỏa ước được xác lập giữa ba thành phần này, thỏa ước đó bao gồm những thực thể được xác định và có tên gọi “common land” (tạm dịch: vùng đất của chung). Thỏa ước này nhằm mục đích giữ lại những quyền lợi cơ bản cho người nông dân trên các vùng đất của họ hoặc cộng đồng của họ hoặc kể cả các vùng đất của lãnh chúa, địa chủ nhưng người nông dân nhận làm thuê, sau khi đã thuộc về giai cấp quý tộc phong kiến và địa chủ tư bản.

Cụ thể, thỏa ước về sự tồn tại của các “common land” mang ý nghĩa rằng, ngoài những của cải, vật chất, điều kiện xã hội mà tầng lớp quý tộc phong kiến và địa chủ tư bản đã chiếm hữu, họ bắt buộc phải dành lại cho người nông dân những vùng đất mà trên đó các điều kiện về hoa màu, chăn nuôi, đất, nước và điều kiện sinh sống ổn định được bảo đảm. Với những “common land” này, tất cả mọi người nông dân đều sử dụng cùng nhau để phục vụ cho cuộc sống của mỗi người hoặc của cộng đồng. Hiện nay, tại Vương quốc Anh và một số nước châu Âu vẫn còn tồn tại những “common land” như thế. Và danh từ “common” ra đời mang nghĩa chung, cộng đồng, công hữu, công sản… từ hoàn cảnh đó.

Như thế, với việc hiểu rõ ý nghĩa của thuật ngữ “common”, chúng ta có thể xác định được những nguyên tắc cốt lõi và bản chất của mô hình KGHTC mà các quốc gia có nền thư viện học phát triển trên thế giới đang xây dựng.

Cũng giống như việc “common land” cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho cư dân sống trên nó, KGHTC cũng tập trung cung cấp, không ngừng phát triển những tiện ích và dịch vụ quan trọng nhất đối với các nhu cầu nghiên cứu, học tập và giải trí của cộng đồng NDT mà nó hướng đến. Đặc biệt, nhu cầu giải trí trở thành một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt sự khác nhau giữa mô hình KGHTC và thư viện truyền thống. Không gian giải trí trở thành một bản chất không thể thiếu trong KGHTC, bên cạnh các bản chất về công nghệ, không gian ảo và quan điểm phục vụ.

 Các thuật ngữ đi kèm với “commons” như Learning, Digital, Media… chỉ để làm rõ ràng hơn về các tiện ích và dịch vụ cần thiết mà các KGHTC cung cấp. Còn về bản chất thì chúng hòan toàn giống nhau: là nơi cung cấp những dịch vụ và tiện ích thiết yếu nhất cho nhu cầu nghiên cứu, học tập, giảng dạy và giải trí của NDT.

2.    Phòng Không gian học tập chung, Thư viện ĐH Khoa học tự nhiên

Phòng KGHTC tại Thư viện trường ĐH KHTN hiện tại có diện tích rất khiêm tốn, chỉ khoảng 261m2 với sức chứa gần 100 chỗ ngồi. Do đó, Thư viện xác định cần tạo ra những giá trị thay đổi về quan điểm phục vụ khi xây dựng mô hình này và hướng đến những nhu cầu thực tiễn, thiết thực nhất của NDT một cách chủ động hơn. Đó cũng là một bản chất và yêu cầu quan trọng trước khi xây dựng bất kỳ một KGHTC nào: phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của NDT.

Vì vậy, trong quá trình hoạt động của thư viện truyền thống trước đây và theo mô hình KGHTC hiện tại, chúng tôi xác định được những nhu cầu sau đây của NDT:
-        Một không gian học tập dành cho cá nhân
-        Một không gian học tập dành cho nhóm từ hai thành viên trở lên
-        Một không gian học tập dành cho nhóm phục vụ việc thuyết trình, báo cáo…
-        Một không gian học tập ảo – Virtual Learning Commons.
-        Một không gian học tập để truy cập Internet
-        Một không gian để thư giãn, nghỉ ngơi sau giờ phút học tập, tranh luận căng thẳng
-        Tinh thần hợp tác trong KGHTC

2.1       Không gian học tập dành cho cá nhân

Tận dụng cơ sở vật chất hạn hẹp hiện có, KGHTC xây dựng một khu vực mà tại đó NDT được thoải mái sử dụng laptop, tài liệu cá nhân với các ổ cắm điện được bố trí sẵn. Mỗi vị trí ngồi được bố trí từ hai đến bốn ổ cắm điện, giúp NDT có thể sử dụng nguồn điện sẵn có với nhiều mục đích khác nhau. Khu vực được thiết kế với các vách che ngăn cách từng chỗ ngồi đơn lẻ, giúp hình thành một không gian riêng tư trong quá trình học tập, giải trí của NDT tại khu vực này.

Không gian này là biểu trưng cho hình ảnh của một thư viện truyền thống. Là nơi thể hiện sự tôn trọng quyền tự do cá nhân của NDT trong việc thinh lặng để làm việc và suy ngẫm tri thức, một nhu cầu gần như là tất yếu từ xưa đến nay trong suy nghĩ của bất cứ ai khi đến thư viện. KGHTC được xây dựng theo một định hướng mới, hiện đại nhưng vẫn luôn đáp ứng mọi nhu cầu của NDT và nhu cầu học tập trong thinh lặng là một trong số những nhu cầu sẽ không bao giờ thay đổi trong tương lai.

2.2       Không gian học tập dành cho nhóm từ hai thành viên trở lên

Tại các khu vực này, KGHTC bố trí các vị trí ngồi gần nhau hoặc thành từng nhóm, có sẵn nhiều ổ cắm điện cho việc sử dụng các thiết bị công nghệ. Tại đây, NDT hầu như được thoải mái trao đổi, di chuyển chổ ngồi để phục vụ cho nhu cầu học tập của mình. Thậm chí, sự ồn ào trong quá trình tranh luận được khuyến khích vì điều này giúp tạo sự thoải mái, sáng tạo trong quá trình thực hiện công việc của NDT. Tất nhiên, do hạn chế khách quan nên mục đích trên đây vẫn chưa hoàn toàn đạt đến mức như kỳ vọng.

Không gian học tập này có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác nhận với NDT về việc thay đổi quan điểm phục vụ của KGHTC so với thư viện truyền thống. Không gian học tập dành cho nhóm giúp tạo nên một cộng đồng học thuật đa dạng tập trung nhiều chuyên ngành, lĩnh vực khác nhau trong một không gian duy nhất. Không gian này có thể được xem như sự thu nhỏ của cộng đồng học thuật trong nhà trường, nơi mà sự tranh luận thoải mái của trí tuệ được khuyến khích và luôn luôn nhằm khơi gợi sự sáng tạo từ không gian đó.

Sự khác biệt nằm trong việc cho phép “tiếng ồn” từ các cuộc tranh luận của NDT trong không gian này. Thư viện trong nhận thức của hầu hết mọi người là nơi của sự thinh lặng và nghiên cứu nhưng đồng thời cũng là nơi cung cấp tri thức và tri thức thì luôn luôn cần được chia sẻ, cũng như có nhiều cách thức khác nhau để đạt đến tri thức. Do đó, phòng KGHTC cố gắng tận dụng nguồn cơ sở vật chất hiện có để xây dựng một khu vực học tập theo nhóm và khuyến khích NDT luôn luôn tranh luận trí tuệ cùng nhau. Đó là một nhu cầu chính đáng. Vì sự thinh lặng có thể tìm ra chân lý thì sự tranh luận cũng có thể làm được điều đó.

2.3       Không gian học tập dành cho nhóm phục vụ việc học nhóm, thuyết trình, báo cáo…

Không gian này có thể đơn giản hiểu là phòng học nhóm, một loại phòng chức năng mà đã có vài thư viện chú ý xây dựng ngay từ đầu hoặc bổ sung về sau. Sự khác biệt của phòng KGHTC và thư viện truyền thống còn nằm ở bản chất sự xuất hiện của phòng học nhóm. KGHTC khuyến khích sự tranh luận thậm chí là gay gắt vì bên cạnh nhu cầu thinh lặng để nghiên cứu, vẫn có những NDT tìm ra được vấn đề nếu tranh luận cùng nhau. Vì vậy, một KGHTC nhất thiết phải có phòng học nhóm để đáp ứng một nhu cầu đã bị “bỏ quên” của NDT từ lâu nay.

Phòng học nhóm trong KGHTC Thư viện ĐH KHTN được trang bị một màn hình tivi 42’, một máy tính để bàn, 10 ổ cắm điện và một cổng kết nối Internet bằng dây mạng, bên cạnh đó là một bộ bàn ghế salon có thể phục vụ nhu cầu của nhóm lên đến 15 thành viên. NDT khi đăng ký thường với các mục đích thực hiện bài tập nhóm, họp nhóm, họp phòng nghiên cứu, hoặc báo cáo, thuyết trình đề tài với giảng viên, thuyết trình trước khi bảo vệ đề tài luận văn, khóa luận tốt nghiệp và các buổi hướng dẫn của giảng viên đối với sinh viên, học viên…

Từ khi đưa vào sử dụng vào tháng 4/2013, phòng học nhóm đã đón gần 500 lượt đăng ký sử dụng, mỗi lượt đăng ký được tính là một buổi sáng hoặc chiều. Trong đó, cần lưu ý rằng các tháng 2 hằng năm là thời gian nghỉ Tết cùng vơi khoảng thời gian trong hai tháng 7 và 8 là thời gian nghỉ hè, nên tần suất NDT đến sử dụng phòng học nhóm trong khoảng thời gian này là rất thấp. Do đó với gần 9 tháng mỗi năm, phòng học nhóm trong KGHTC đã có tần suất sử dụng khá lớn, chứng tỏ nhu cầu của NDT đang được đáp ứng một cách hiệu quả.

Ngoài ra, tính đến hiện tại, các đối tượng NDT là giảng viên, nghiên cứu viên thuộc nhà trường đã bắt đầu có các thói quen sử dụng phòng học nhóm phục vụ cho việc giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu của mình. Điều này cho thấy nhu cầu sử dụng phòng học nhóm của NDT là rất lớn và cần được hoàn thiện nhiều hơn trong tương lai.

2.4       Không gian học tập ảo – Virtual Learning Commons.

Tài liệu điện tử được sử dụng trong môi trường ảo và là một thành phần bắt buộc phải có trong KGHTC. Đa số NDT đến phòng KGHTC đều mang theo laptop hoặc các thiết bị công nghệ cá nhân, do đó, NDT có nhu cầu sử dụng liên tục với tần suất cao. Ngoài ra, các thiết bị cá nhân có kết nối Internet này còn là một kênh quan trọng giúp KGHTC cung cấp các nguồn tài nguyên điện tử của mình. Số lượng máy tính kết nối Internet của phòng KGHTC hiện tại còn hạn chế, do đó, việc tạo điều kiện thuận lợi để NDT sử dụng các thiết bị công nghệ cá nhân sẽ giúp phát huy tối đa việc khai thác không gian ảo của phòng KGHTC.

Tại phòng KGHTC, Thư viện cung cấp dịch vụ đăng ký sử dụng các cơ sở dữ liệu của Thư viện Trung tâm ĐHQG-HCM, bên cạnh đó là các dịch vụ mượn liên thư viện, in ấn, số hóa tài liệu, cung cấp máy đọc sách... Theo số liệu thống kê từ Thư viện Trung tâm về Thư viện ĐH KHTN, từ năm học 2011 – 2012, sau khi cho phép NDT là sinh viên đăng ký sử dụng các CSDL này, số lượt đăng ký đã từ 85 lượt tăng lên đến 2.314 lượt NDT đăng ký sử dụng (2014 – 2015). Số liệu này đã khẳng định nhu cầu sử dụng nguồn tài liệu điện tử của NDT trong xu thế phát triển công nghệ hiện nay và đồng thời khẳng định việc cần xây dựng một môi trường ảo nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tài liệu điện tử của NDT.
Trong thời gian tới, phòng KGHTC sẽ tiến hành các bước hoàn thiện hơn việc sử dụng tài liệu điện tử trong môi trường số. Vì môi trường KGHTC ảo (Virtual Learning Commons – VLC) không chỉ có tài liệu điện tử mà còn cần các phần mềm và các tiện ích hỗ trợ NDT khác do phòng KGHTC xây dựng, nhằm tạo ra một không gian học tập thật sự như không gian vật lý. Hầu hết các VLC hiện tại trên thế giới đều yêu cầu đăng nhập bằng một tài khoản do KGHTC cung cấp, nhằm cá nhân hóa các hoạt động của NDT, xây dựng tính chuyên nghiệp và bảo mật trong quá trình hoạt động của NDT khi đến với KGHTC.

Các tiện ích hỗ trợ trong VLC bao gồm các chức năng như hướng dẫn NDT cách tra cứu tài liệu, khai thác thông tin trên Internet, trong KGHTC, đăng ký sử dụng các dịch vụ, lưu trữ dữ liệu hoạt động… với các hình thức trình bày đa dạng, phong phú bằng hình ảnh, âm thanh, video… Điều này tạo ra những hoạt động sống động của Thư viện trên môi trường ảo, thu hút NDT đến với KGHTC nhiều hơn.

2.5       Không gian học tập để truy cập Internet

Về mặt bản chất, KGHTC hướng đến xây dựng một không gian thực hành cùng với các chức năng tương đương như phòng thí nghiệm. Cùng với đó, KGHTC là một “không gian bên ngoài lớp học”, nơi thực hiện các chức năng xã hội của trường học và là nơi chuyển đổi những tri thức lý thuyết thành ứng dụng thực tiễn thông qua sự hỗ trợ tối đa của công nghệ.

Tất cả mọi ngành học hiện nay đều yêu cầu sự hỗ trợ từ công nghệ cũng như sự tương tác ngày càng phổ biến giữa NDT và các ứng dụng công nghệ hiện đại. Do đó, hệ thống máy tính trong KGHTC cần có cấu hình mạnh mẽ, đa chức năng và sử dụng được nhiều ứng dụng công nghệ khác nhau. Với những tiện ích như thế, KGHTC tạo nên một địa điểm lý tưởng để NDT thỏa sức sáng tạo và lôi cuốn họ đến với Thư viện hơn.

Bên cạnh đó, hệ thống máy tính có kết nối Internet cùng hệ thống mạng không dây là điểm truy cập trực tiếp trong KGHTC để kết nối không gian vật lý và không gian ảo vốn là hai không gian học tập yêu cầu phải được xây dựng song song cùng nhau trong mô hình KGHTC. Do đó, tốc độ kết nối Internet là một vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến không những việc sử dụng hệ thống máy tính mà còn cả việc khai thác tối đa các tiện ích của VLC.

Phòng KGHTC phân chia hệ thống máy tính thành hai khu vực cung cấp hai chức năng khác nhau: cung cấp dịch vụ học tiếng Anh và cung cấp các tiện ích văn phòng. Phần mềm học tiếng Anh LANGMaster được cài sẵn trực tiếp trên các máy tính thuộc khu vực học tiếng Anh và các máy này không cài thêm các tiện ích văn phòng. Trong quá trình hoạt động, NDT hầu như rất ít sử dụng dịch vụ này nhưng thường xuyên sử dụng các chương trình học Anh văn trực tuyến, một phần lý do trong đó nằm ở việc NDT đã quen với việc tiếp cận và sử dụng Internet phục vụ nhu cầu của mình, trong đó có nhu cầu học Anh văn, ngoại ngữ.

Trong tương lai, với số lượng máy tính phù hợp với không gian vật chất hiện tại, hệ thống máy tính trong KGHTC sẽ được nâng cấp để thực hiện các chức năng và mục tiêu thiết thực đáng mong đợi của mô hình này.

2.6       Không gian để thư giãn, nghỉ ngơi sau giờ phút học tập, tranh luận căng thẳng

Bằng việc cải tạo không gian bố trí tại phòng, Thư viện xây dựng một không gian học tập thoải mái dành cho người đọc với hai bộ ghế salon chiếm hơn 1/3 diện tích hiện có, bên cạnh các tiện ích truyền thống như quầy dịch vụ, cung cấp tài liệu, truy cập mạng...

 Điều này có ý nghĩa rất quan trọng. Vì KGHTC là một mô hình mà bên cạnh yếu tố đáp ứng các nhu cầu học tập, nghiên cứu trên cơ sở hoạt động thực tiễn của NDT, một yếu tố quan trọng khác là đáp ứng nhu cầu thư giãn và giải trí của NDT ngay trong chính không gian học tập của họ. Chính sự áp dụng này đã tạo nên một không gian học tập thân thiện và đầy sức thu hút đối với NDT, khiến cho KGHTC như trở thành một nơi không chỉ để học tập, nghiên cứu say mê nhưng còn là nơi nghỉ ngơi sau những giờ phút làm việc mệt nhọc, một nơi thư giãn của trí tuệ và kích thích sự sáng tạo.

Trong năm học 2012 – 2013, phòng KGHTC được chính thức đưa vào sử dụng nhưng cùng lúc đó, Thư viện gặp nhiều tác động khách quan từ bên ngoài, dẫn đến số lượt NDT đến với Thư viện giảm sút đáng kể. Mặc dù vậy, lượt sử dụng riêng với phòng KGHTC vẫn tăng tính từ năm học 2013 – 2014:

Điều này xuất phát từ việc Thư viện bắt đầu dần thay đổi kết cấu ban đầu của phòng KGHTC, hướng đến xây dựng các khu vực phù hợp có chức năng khác nhau trong một môi trường thân thiện và tiện lợi, trong đó quan trọng nhất là khu vực thư giãn. Cũng như việc định nghĩa những “common land” như trên, KGHTC xác định một trong các yếu tố thiết yếu nhất đó là tạo ra không gian thư giãn và thoải mái để NDT có thể nghỉ ngơi sau một quá trình lao động trí óc miệt mài.

Thư viện ngoài việc cung cấp không gian thư giãn, thoải mái còn cung cấp các đầu sách thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, kỹ năng mềm, khoa học thường thức… cũng nhằm mục đích giúp NDT thư giãn sau giờ phút học tập căng thẳng và đồng thời nâng cao kiến thức, kích thích sự sáng tạo ngay trong chính thời gian thư giãn, nghỉ ngơi. Cùng với đó là các máy đọc sách Kindle Fire có sẵn hơn 1.000 ebook, các tiện ích giải trí luôn sẵn sàng phục vụ nhu cầu giải trí, thư giãn của NDT.

2.7       Vấn đề hợp tác trong KGHTC

KGHTC nhấn mạnh sự khác biệt trong quan điểm tiếp cận với NDT. Mối quan hệ giữa các nhân viên trong KGHTC và NDT phải được thay đổi thành mối quan hệ cộng sinh, hợp tác cùng giải quyết các vấn đề và trở thành những yếu tố quan trọng của nhau, phải cùng nhau hợp tác để phát triển. Đó là nguyên tắc phục vụ cốt lõi, bản chất quan trọng nhất của mô hình KGHTC: một không gian của cộng đồng và vì cộng đồng. Tạo ra mối quan hệ hợp tác, KGHTC hướng đến sự thay đổi trong nhận thức của NDT khi họ đến với mô hình này để đạt được các giá trị tri thức thực thụ và mang tính hiệu quả so với thực tiễn.

Cùng với sự thay đổi nhận thức về vai trò của dịch vụ thông tin trong thư viện, rằng dịch vụ thông tin đang trở nên quan trọng hơn nhiều so với công tác nghiệp vụ. Bởi vì công nghệ thông tin đang gắn liền với sự nghiệp thư viện, đã làm tăng thêm tính chủ động trong sự tiếp cận với NDT, đòi hỏi thư viện phải luôn luôn tận dụng công nghệ để thu hút NDT đến với thư viện ngày càng nhiều hơn, đông hơn và tạo ra nhiều giá trị vật chất, phi vật chất hơn.

KGHTC tại Thư viện ĐH KHTN luôn theo đuổi quan điểm đó như việc thực hiện một trong những tính chất quan trọng hình thành nên mô hình này. NDT luôn được khuyến khích để đặt câu hỏi và nhân viên luôn chủ động không những để đặt ra câu hỏi trợ giúp NDT nhưng còn thu hút NDT hơn bằng tinh thần cởi mở, thân thiện và hòa đồng… Ngoài ra, cơ sở vật chất, cách bố trí, chức năng trong phòng KGHTC hiện tại đang hướng đến và cả trong tương lai sẽ không phụ thuộc vào vị trí tầng hay đồ nội thất, nhưng phụ thuộc vào những hoạt động mà NDT tại ĐH KHTN có thể được tham gia và những tiện ích thiết thực để hỗ trợ các hoạt động đó.

Vì nhiều lý do, Thư viện hiện tại chỉ mới quảng bá một số hoạt động của mình thông qua các trang fanpage Facebook của các Khoa, Đoàn – Hội sinh viên, Phòng, Ban trong nhà trường như Đoàn – Hội Khoa Vật lý – Vật lý kỹ thuật, Đoàn – Hội Khoa Hóa học, Phòng Công tác sinh viên, Phòng Đào tạo Sau đại học… Vấn đề tham gia vào cộng đồng mạng xã hội và ứng dụng các tiện ích công nghệ luôn được Thư viện rất quan tâm. Nhưng với vai trò là một cơ quan trực thuộc đơn vị sự nghiệp công lập và chịu sử quản lý trực tiếp của Trường ĐH Khoa học tự nhiên – ĐHQG-HCM, Thư viện luôn cân nhắc thật kỹ lưỡng trong việc xây dựng các kế hoạch ứng dụng các thành tựu công nghệ vào hoạt động của mình.

Bởi vì, việc ứng dụng các thành tựu công nghệ dù rất bức thiết nhưng cũng rất đơn giản, so với việc đáp ứng hiệu quả nhu cầu thực tiễn của NDT và tính phát triển bền vững, liên tục của các ứng dụng này trong quá trình hoạt động của mô hình KGHTC. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ thật sâu sắc vào các hoạt động truyền thống của thư viện là một yêu cầu bắt buộc trong mô hình KGHTC.
KGHTC trong quan điểm phục vụ có sự khác nhau đối với thư viện truyền thống. Trong thư viện truyền thống, mối quan hệ giữa nhân viên thư viện và NDT là sự phục vụ, cung cấp… nhưng trong KGHTC lại là sự hợp tác, hỗ trợ dựa trên mối quan hệ cộng sinh và vì lợi ích của cộng đồng học thuật trong nhà trường. Giúp đỡ NDT là công việc và sử dụng KGHTC cũng là công việc, nhân viên thư viện và NDT cùng hợp tác với nhau trên nhiều phương diện để cùng giải quyết các vấn đề phát sinh từ chính công việc của mình.

3.    Kết luận

Điều chúng tôi đang tập trung xây dựng tại phòng KGHTC Thư viện ĐH KHTN TP.HCM trong khoảng thời gian 3 năm đã qua chưa phải về mặt cơ sở vật chất, nhưng về mặt bản chất và tinh thần hoạt động. Chúng tôi cố gắng xác định cho chính mình và định hình những hình ảnh không gian học tập đặc trưng cho từng nhu cầu của NDT. Qua đó dần tạo nên những thói quen về cách sắp xếp và bố trí cũng như cách thức vận hành của mô hình KGHTC đối với NDT. 

Trong thái độ tiếp cận với NDT, các khu vực không gian học tập và tinh thần hoạt động theo bản chất mô hình KGHTC, tất cả đang được hình thành và đón nhận những sự ghi nhận tích cực của NDT. Có đến hơn 80% số người được khảo sát đánh giá rất tốt về tinh thần và thái độ phục vụ của nhân viên phòng KGHTC đối với NDT. Cùng với đó là việc ứng dụng công nghệ từng bước nhưng thật sâu sắc và bảo đảm tính bền vững, liên tục trong tương lai.

Ngoài ra, khi xây dựng KGHTC, bắt buộc phải xây dựng VLC. Vì bản chất KGHTC là tạo nên những sự tiếp cận thuận lợi nhất, hữu hiệu nhất và liên tục nhất mỗi khi NDT có nhu cầu sử dụng. Vì vậy, sự tồn tại song song và hiệu quả cả hai mô hình KGHTC vật lý và VLC chính là tiêu chí so sánh sự khác biệt đối với thư viện truyền thống. Để phát triển VLC, phòng KGHTC đang tận dụng trước hết là nguồn tài liệu điện tử từ các CSDL của Thư viện Trung tâm ĐHQG-HCM, phát triển nguồn tại liệu nội sinh hiện có và xây dựng kế hoạch tạo lập các bộ sưu tập tài liệu chuyên ngành để cung cấp đến NDT.

Sự ra đời của mô hình Learning commons đã đánh dấu một bước phát triển mới trong tiến trình hoạt động của ngành thư viện. Nhưng đồng thời, để xây dựng một Learning commons hoàn chỉnh, hay đúng hơn là những tòa nhà và dịch vụ thư viện thật sự xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của NDT thì rất cần các yếu tố khác nhau, quan trọng nhất là nhân sự, công nghệ và kinh phí. Với những hiệu quả mà mô hình này mang lại, chắc chắn những sự đầu tư to lớn ban đầu đều rất xứng đáng.

Trường ĐH KHTN – ĐHQG-HCM đã có đề án xây dựng một thư viện hiện đại và có tầm vóc tương xứng với quy mô đào tạo của nhà trường tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Vì vậy, trong tương lai, chắc chắn mô hình KGHTC sẽ được triển khai và xây dựng thật hoàn chỉnh đúng với những chức năng và bản chất mà mô hình hiện đại này đang hướng đến.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
2.     https://vi.wikipedia.org/wiki/Chủ_nghĩa_tư_bản
3.     Thư viện và nghề thư viện / Nguyễn Minh Hiệp
5.     Information Commons to Learning Commons
6.     The evolving landscape of the learning commons
7.     Common Knowledge: Learning Spaces in Academic Libraries
9.     From information to learning commons: campus planning highlights
10. 7 things you should know about the modern Learning Commons