Sáng sớm thứ bảy (7/1/2015), từ Thành Đoàn TP.HCM các xe bắt đầu lăn bánh, đưa chúng tôi vào chương trình thăm hỏi các gia đình nuôi giấu cách mạng ở Củ Chi.

Tôi chẳng kịp nhớ tên của từng người nhưng đã kịp ghi lại những dấu ấn sâu sắc về họ và cuộc đời của họ vào lòng tôi. Tôi viết lại những dòng này, để mong muốn bản thân khi lần đầu tiên đã được tận mắt chứng kiến những tấm gương nhân chứng sống của một thời quân – dân chống ngoại xâm, tôi sẽ không bao giờ quên, sẽ khắc ghi để làm động lực, làm niềm tin cho con đường cuộc sống của mình...

Người đầu tiên, là một Cô chiến sĩ nay đã trên dưới 60 nhưng vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Cô là bạn học của cô Phi Vân – người dẫn đuồng cho đoàn chúng tôi. Hai người là bạn học lớp nhất, lớp nhì của chế độ cũ, cùng tham gia kháng chiến cho đến ngày hòa bình lập lại.

Người thứ hai, là một Mẹ Việt Nam Anh Hùng. Dáng người Cụ nhỏ thó, đôi mắt đã nhỏ lại theo dòng thời gian nhưng cũng còn minh mẫn, dù tóc đã bạc và chân tay yếu lắm. Nghe qua, các con của Cụ đã hy sinh, chỉ còn lại người con gái út hiện giờ đang phụng dưỡng Cụ. Lúc vào, cô Phi Vân hỏi Cụ năm nay bao nhiêu tuổi, Cụ trả lời 97. Cô Vân cười đùa bảo, sao năm ngoái gặp hỏi kêu 97 mà năm nay cũng 97 hay vậy, phải 98 chứ. Cụ không cười, nhưng bầy thanh niên Đoàn chúng tôi đứng xung quanh Cụ thì cười.

Cũng phải nhớ rằng, gặp Cụ là một may mắn. Vì trong suốt hành trình ngày hôm ấy, nhiều Mẹ đã không còn hiện diện đến hôm nay.

Tôi thích sử và có lẽ dòng lịch sử dân tộc mà tôi đã đọc, ghi nhớ như đang bắt đầu cuồn cuộn trong tôi khi tôi được nhìn thấy một Mẹ Việt Nam bằng xương bằng thịt, đang sống trong ngôi nhà của một “dân đen”... chính hiệu. Cô Phi Vân từ tốn kể lại cho chúng tôi nghe ngày xưa Cụ đã sống cùng Cách mạng như thế nào. Chuyện những ngày Cụ nuôi giấu cán bộ Cách mạng, chuyện những người con của Cụ dần dần ra đi không trở lại, để lại xương máu mình trên những nẻo đường quê hương. Cô gọi cụ bằng Má, thân thiết lắm, vì ngày xưa Cô Phi Vân là một trong những cán bộ đã sống dưới sự yêu thương của, che chở của Cụ.

Trong hành trình, tôi nhớ tiếp về một người phụ nữ khác, không phải chiến sĩ cách mạng, nhưng là con dâu của gia đình có 3 người con đều đã hy sinh. Cô bị tai biến, tay phải run run liên tục, ngồi trên chiếc giường tre, trông tiều tụy lắm. Nhưng Cô vẫn nhớ rõ từng ký ức về thời đã qua. Cô kể lại rành rọt cho chúng tôi nghe Cô đã làm tròn bổn phận người con dâu như thế nào. Cô Phi Vân nói thêm, khi hai người con đầu của cha chồng cô – trong đó có chồng cô, đã hy sinh, gia đình vẫn tiếp tục nuôi dưỡng cách mạng. Sau đó, có cán bộ đến tính dắt con út của ông cụ đi kháng chiến, ông mới nói “đứa nào dắt nó đi là tao chém”. Nhưng sau người con út của ông cũng đi và hy sinh ngoài chiến trường...

Tôi khắc sâu hình ảnh của Cô – người con dâu, khi không phải chiến sĩ, không phải Mẹ Việt Nam nhưng đã là một Phụ Nữ Việt Nam. Cô đã đóng góp những sức lực mình có thể trong tinh thần một người Phụ Nữ Việt Nam góp công mình vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Cuộc sống tươi đẹp hôm nay, là có cuộc đời hy sinh của cô trong đó...

Người thứ ba, là một tư sản dân tộc trước 1975, đã nuôi giấu Cách mạng mà mãi đến gần đây mới được nhớ tới, được công nhận. Bà là người duy nhất còn đủ sức để khóc trong những người chúng tôi được gặp hôm nay. Trong nước mắt, Bà nói mình chẳng cần gì những điều này, chỉ muốn được gặp lại anh em, đồng chí, bạn bè xưa. Hồi trước Bà ở Tân Bình, sau chuyển về đây xa xôi quá, cũng chẳng liên lạc gì nhiều mãi cho đến bây giờ mới gặp lại rồi được Nhà nước công nhận mình là người có công.

Ngôi nhà của Bà khang trang, ra vẻ sung túc, dư dả, khác xa với những người mà chúng tôi gặp trong chuyến hành trình còn lại...

Thứ nữa, trong buổi sáng, chúng tôi còn đến thăm nhà một đôi vợ chồng còn khỏe mạnh – ông Cụ thì năm nay 83, nhưng còn khỏe và nhanh nhẹn lắm; bà Cụ thì nói lên hồi, còn chạy lên chạy xuống cười đùa, lấy bưởi vườn mời chúng tôi. Ông Cụ thì mấy lần bị thương, bị bắt trong chiến tranh, nhiều khi thấy như tưởng chết rồi – có lần địch tưởng ông chết nên vứt ở rìa đường, nhưng ông vẫn sống khỏe mạnh đến giờ dù trái gió trở trời thì mình mẩy đau nhức và có lẽ còn do những đau nhức của một thời đã qua còn đến bây giờ, không bỏ được.

Buổi trưa, chúng tôi dừng chân ở nhà hàng Bến Dược. Đến trễ, nên chỉ kịp được nghe đoạn kết của một người Mẹ nhỏ thó nhưng lanh lợi, đang kể lại cuộc đời mình cho các Đoàn viên đã về trước, cùng với những người cùng thời với Mẹ. Có cô Trương Mỹ Hoa, cựu tù Côn Đảo cũng đến tham dự và chúng tôi may mắn được chụp một tấm ảnh lưu niệm cùng Cô...


Hành trình buổi chiều bắt đầu khi chúng tôi dùng cơm xong nhưng không nghỉ trưa. Tất cả lên xe ngay để kịp thời gian về lại Thành phố.

Những căn nhà buổi chiều mà chúng tôi đến gặp, đa phần nghèo lắm. Có người đã già, nói chẳng thành được tiếng, dù vẫn đủ khỏe để đi lại chăm sóc vườn tược. Cụ vẫn nhớ Cô Phi Vân, vẫn nói chuyện minh mẫn lắm. Nhưng nhà Cụ thì đúng thực là làm tôi như thấy chẳng khác xa gì những ngôi nhà thời chiến tranh: lụp xụp, nhỏ bé, đầy những tấm ván ghép vội, nền đất tự nhiên... Cụ ít nói với chúng tôi nhiều điều, hầu như chỉ trầm ngâm khi có ai nhắc lại thời chiến tranh đã qua. Mà biết đấy, người già với những đường nét cuối cùng của tạo hóa, khi họ trầm ngâm nghĩa là họ đang nhớ về một quá khứ đời họ đã đi qua, đầy những đau thương, mất mát, vui buồn xen lẫn. Chắc có lẽ trong những trầm ngâm đó, có nhiều điều Cụ muốn nói, Cụ day dứt nhưng lại thôi, vì rồi những gì của đau thương cũng đã qua, hôm nay đã Hòa Bình, Hòa Bình rồi thì tạm gác quá khứ đi thôi, nhắc lại chi cho thêm buồn...

Trước khi đến căn nhà cuối cùng, chúng tôi ghé thăm một người Mẹ, mà ngày trước là người đã nuôi giấu Ông Nguyễn Minh Triết – nguyên Chủ tịch nước. Cụ có giọng ca cải lương ngọt ngào mà nhiều người trong đoàn đi trước đây vẫn nhớ và quả thật là nghe Cụ ca cổ thì mùi lắm. Cũng dáng người nhỏ thó, teo tóp và còn lanh lẹ chẳng kém gì đám thanh niên. Trong tính tình và cách tỏ ra bên ngoài, tôi biết thời trẻ đây hẳn là một người chiến sĩ mưu trí lắm đây, nhiệt huyết lắm đây. Trong Cụ, tôi nhìn thấy nét dân dã, hồn nhiên vốn dĩ của những người dân đơn sơ, mộc mạc chỉ biết có lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm chứ chẳng biết gì đến chính trị xa xôi. Lúc về, Cụ liến thoắng hỏi chung tôi có ai có số điện thoại của Ông Triết không “để tao gọi điện hỏi thắm chứ chẳng có gì”. Vậy thôi, đơn giản và mộc mạc, những người dân – chủ nhân thật sự của đất nước.

Chúng tôi đến thăm ngôi nhà cuối cùng của cuộc hành trình. Một ngôi nhà xây theo lối truyền thống, nhưng đặc biệt nhất là gian hoa lan treo lủng lẳng trước hiên nhà, khiến ai đi vào cũng trầm trồ khen ngợi. Tôi cũng mải ngắm nhìn giàn hoa lan, không nghe được những câu chuyện về đời Cụ... Nhưng chắc tôi làm đúng, nghe làm gì nữa khi trong chiến tranh ngoài hy sinh, mất mát và đau thương thì người ta còn gì để kể lại cho con cháu? Những mỹ từ hiên ngang, hào hùng cũng chỉ là bên ngoài, của người ta an ủi nhau thôi, còn mảnh đời của một người như Cụ, có mỹ từ nào đủ để ca ngợi, có từ ngữ nào diễn ta hết những đau thương???

Các anh chị Đoàn viên chúng tôi thi nhau đứng dưới giàn lan tạo dáng để có những bức ảnh đẹp nhất làm kỷ niệm. Hiện tại hôm nay đang vui tươi như thế, chính là được xây dựng trên những đau thương hôm qua.

Nếu ngày hôm nay, đất nước này không giàu mạnh, dân tộc này không hiên ngang giữa các cường quốc và thanh niên chúng tôi sa đà vào những tính cách xấu xa của xã hội, thì thật có lỗi với những thế hệ hôm qua. Thì xương máu của của những người cha, người chồng, người con, anh chị em của các Mẹ, các Cụ đã ngã xuống hôm qua sẽ trở thành vô ích.

Trong thời chiến, con người khao khát Hòa Bình và đã có Hòa Bình. Trong Hòa Bình người Việt Nam khao khát giàu có, âm no những vẫn còn đâu đó ở một chân trời xa xôi...

Nhưng chắc chắn nó sẽ đến, ngày Việt Nam giàu mạnh và hiên ngang!